TỰA
TẬP ĐỊA LÝ TẢ AO BÍ THƯ ĐẠI TOÀN của Cao Trung
Quý vị cầm nơi tay đây là tập Địa Lý Gia Truyền Bí Thư Đại Toàn - tập này là tập thứ nhất trong tài liệu gia truyền của giòng họ Tả Ao mà tên tổng hợp của nó là Tả Ao Địa Lý Toàn Thư.
Thưa quý vị. Tài liệu quý giá nhất về khoa Địa Lý của người Việt Nam là Tả Ao Địa Lý Toàn Thư đã có trên 400 năm nay vẫn được các cụ giữ kín dùng làm gia bảo riêng cho giòng họ nhà mình. Làng Địa Lý Việt Nam ở ngoài Bắc di cư vào Nam năm 1954, không có quý vị nào mang theo được, dù là một phần, tài liệu quý giá này. Sau nhiều năm tìm kiếm, may thay lại kiếm được nó; không phải là do các cụ mang vào kỳ di cư 1954, mà là do cụ Huyện Mười ở Tăng Nhân Phú có từ năm 1914, khi gia đình cụ di cư vào Nam thời đó.
Dĩ nhiên làng Địa Lý lại xin sao, và cụ Huyện Mười cũng rộng lượng cho phép. Do đó mỗi thầy Địa Lý di cư đều có một bản. Cao Trung tôi, may thay cũng được dự phần. Các vị Địa Lý Gia khác khi có sách này thì thường cất vào tủ và lâu lâu giở ra xem qua rồi lại cất đi.
Riêng chúng tôi, tài không có bao nhiêu, nhưng mộng lại quá lớn. Chúng tôi quyết dịch và giải thích bộ sách này để dành lại cho hậu thế một tài liệu quý báu đang sắp bị thất truyền. Trên 10 năm làm việc không ngừng, tham khảo với hàng trăm cụ Địa Lý dù quen hay lạ, nếu cụ nào cho phép là tôi tới và gặp. Sách Địa Lý nào cũng mua, sao và đọc. Nhờ rộng đường tham khảo nên năm 1975 mới xong. Mới vừa hoàn tất xong phần dịch thuật chưa kịp san định, giải thích thêm, hoặc phân chia tiết mục, thì phải di cư.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 tôi được biết trước, được xuất ngoại, có một tiếng đồng hồ nên bỏ hết cả tài sản lại nhưng cố mang theo bản thảo Bộ Tả Ao Địa Lý Toàn Thư, một đứa con tinh thần, một hoài bão vĩ đại, một giấc mộng lớn mà tôi đã cưu mang, chăm sóc ngoài 10 năm cũng chỉ mong bộ sách này được để lại cho đời sau khỏi thất truyền mà thôi. Ước mong giản dị đó đã trải trên 10 năm ở Việt Nam và tiếp theo là trên 10 năm nữa ở Hoa Kỳ.
Giờ đây tập thứ nhất của Tả Ao Địa Lý Toàn Thư mới đến tay quý vị. Thật quá trễ nhưng vì khoa Địa Lý đã khó mà chúng tôi lại muốn nó hết sức toàn vẹn trước khi đem in.
Tập thứ nhất này lấy tên là: Địa Lý Tả Ao Bí Thư Đại Toàn
Và tập kế tiếp là: Địa Lý Tả Ao Vi Sư Pháp
Sau đó còn độ 4 – 5 tập nữa mới hoàn tất toàn bộ Địa Lý của dòng họ Tả Ao.
Thưa quý vị, bộ sách Địa Lý này có 3 phụ lục thật đặc sắc. Một phụ lục lò Bát Đại Hoàng Tuyền và phụ lục thứ hai là Long Thượng Bát Sát và phụ lục thứ ba là Thủy Pháp.
Ở trong tài liệu của cụ Tả Ao dịch mới đây cũng nói đến nó, mà nói một cách hết sức mơ hồ thật ra nó là phần quan trọng nhất của khoa Địa Lý. Chúng tôi biết đến 9 phần 10 Địa Lý Gia không nắm vững 3 phần quan trọng này. Do đó chúng tôi phải cố gắng sắp xếp lại cho thật minh bạch ba phần này trước khi các cụ học Địa Lý phần khẩu thụ tâm truyền mới nắm vững nó mà ngày nay trên bộ sách này nhờ ba phụ lục đặc biệt này quý vị nắm vững và biết thật chính xác nó.
Phần Thủy Pháp trong quyển này gồm 48 trang đã là ngắn gọn nhưng chúng tôi lại đã thu gọn vào một Biểu Nhất Lãm tô màu và bọc plastic - Biểu Nhất Lãm Thủy Pháp này làm bằng tay có 2 mặt - mặt trước là Biểu Nhất Lãm Thủy Pháp và mặt sau là La Kinh có chú thêm chữ Việt thường dùng trong khoa Địa lý. Chỉ cần đặt một cái kim chỉ nam vào giữa là ta đã có La Kinh đầy đủ và đặt kim chỉ nam vào giữa mặt trước ta đã có Biểu Nhất Lãm Thủy Pháp mà có sách Tàu phải viết đến 500 trang mới hết.
Mong rằng với sự cố gắng trình bày tập sách này sẽ giúp quý vị nhiều về khoa Địa lý.
CAO TRUNG
CHƯƠNG I
TẦM LONG TRÓC MẠCH
A. HƯỚNG DẪN PHẦN TẦM LONG TRÓC MẠCH
Tầm long của đất kết gọi là Tầm Long Tróc Mạch. Từ gốc là tổ sơn long chia ra đi mọi nơi làm đất kết. Từ khởi thủy của long mạch là tổ sơn đến kết cuộc là đất kết. Khúc giữa là hành long.
Một thế long đi khởi từ tổ sơn, hành long có khi gần và có khi xa cả trăm, ngàn dặm mới đến đất kết. Long đi phải có nước đi theo và khi vào kết thì nước đó lại đổ vào minh đường.
Tổ sơn có nhiều hình dạng, nhìn tổ sơn có thể biết sau long đó sẽ hùng dũng hay suy nhược. Còn hành long thì chính long là cán long (cành lớn) và bành long là chi long (cành nhỏ).
Long đi có thể thuận theo chiều nước chảy, có thể nghịch lại chiều nước chảy, và cũng có thể quay ngang xa chiều nước chảy. Long đi thuận theo nước chảy gọi thuận long. Long đi ngược chiều nước chảy gọi là hồi long và đi ngang chiều nước chảy gọi là hoành long.
B. TẦM LONG TRÓC MẠCH
Câu 1: Tiên vấn tổ tôn, tổ giả, đột khởi nhất sơn vi tổ, phân hành thiên chi vạn điệp, như Côn Lôn sơn đột khởi vi tổ sơn, thị dã.
Tôn giả, ly tổ biệt khởi nhất sơn vi tôn, phân hành đông ngung tay lũng như Vân Lĩnh, Đan sơn giáng nam thị dã
Trước tiên phải hỏi đến tổ tôn - Tổ là một núi đột khởi lên, rồi chia ra làm ngàn vạn chi nhánh – Như Côn Lôn sơn một mình cao vọt lên là tổ sơn vậy. Tôn là tự rời khỏi tổ sơn rồi cũng lại khởi lên một núi riêng biệt, phân hoành ra phương đông Ngung, tây Lũng xuống Nam phương Vân Lĩnh sơn, Đan sơn vậy.
Câu 2: Tổ hữu thủy tổ, thiếu tổ, tiên nhận thủy tổ, hà hữu hình tượng.
Tổ có thủy tổ và thiếu tổ. Trước hết phải nhận rõ hình tượng gì của nó.
Câu 3: Hình hữu hoa cái, tam thai, tượng hữu lâu đài, bảo điện, hoặc song phong tinh khởi, hoặc hữu mã yên cáo trục, trước hình kỳ lân, phương hoàng sơn thế, thượng tự, hạ tự, vương tự, nhân tự, thiên tự, ngũ phẩm bất đồng – Kim tinh, mộc tinh, hỏa tinh, thổ tinh, ngũ hành hữu dị, hoặc như vân lôi nhi khởi, hoặc như qua đằng nhi lai, hoặc như thương như khố, hoặc như cổ như kỳ. Nhược kiến tổ tông tủng bạt, nhất định tử tôn tranh hùng.
Về hình thì có Hoa Cái – Tam Thai. Về tượng thì lâu đài bảo điện. Cũng có khi hai ngọn vươn lên giống như cánh chim. Hình có thể giống như yên ngựa cáo trục, hình kỳ lân, phụng hoàng hoặc hình chữ thượng, chữ hạ, chữ vương, chữ nhân, chữ thiên năm phẩm khác nhau.
Kim tinh, hỏa tinh, mộc tinh, thổ tinh... năm hành phân biệt. Hoặc như mây sấm dâng lên, hoặc như giây dưa man bò lại, hoặc như kho tàng hoặc như cờ trống.
Nếu thấy tổ tôn cao vút chắc chắn con cháu sẽ hùng cường.
Câu 4: Tổ hữu vạn hình yếu dương suy lực, hồi nhi luận, tiên quan kỳ tổ tông khởi, thứ kỳ chi cán; cán giả, chính mạch chi sở hành, chi giả bàng chi, chí sở khứ, cán giả, tùy tiết nhi phát, chi giả nhất đại nhi suy, tiên luận sơn, hậu luận thủy.
Vì tổ sơn có hàng vạn hình trạng, cần phải dùng mục lực mà suy luận. Trước hết hãy xem tổ tông rồi xem đến chi cán – Cán (thân, cây) là đường đi của chính mạch. Chi (cành cây) là lối đi của hàng chi.
Đại để về cán thì mỗi đốt một đời – Còn chi thì chỉ có một đời phát rồi suy.
Trước hết bàn đến sơn, sau mới bàn đến thủy.
Câu 5: Hoặc trường giang, trường khê hoặc đại hồ đại trì, duyên khê nhi chí, phát trì nhi lai, trường thanh khuất khúc vi quý, khí thiển bạc ư trọc, trực lưu vi tiện cách.
Hoặc sông dài suối dài, hoặc hồ rộng ao rộng. Mạch theo ven sông ven suối đến. Khởi từ hồ ao lại. Nước trong trẻo đi khuất khúc là quý khí, còn nước u trọc, chạy thẳng là tiện cách.
Câu 6: Đăng sơn tầm tổ tông, đáo xứ vấn thủy khẩu.
Lên núi để tìm tổ tông, đến huyệt trường phải kiếm thủy khẩu.
Câu 7: Cứ tổ tông nhi mạch tầm lạc, vấn thủy khẩu nhi định lai long - Thủy khẩu phóng Nam, mạch tầm Bắc. Thủy khẩu quy Đông mạch vọng Tây.
Cứ theo tổ tông tìm mạch lạc, hỏi thủy khẩu mà định lai long, Thủy khẩu phóng Nam thì long mạch từ Bắc đến. Thủy ra ở phía Đông thì Long mạch kiếm tìm ở phía Tây.
Câu 8: Dục tường quan giả, tiên khán thủy, hậu khán sơn.
- Dục cấp quan giả, vị khán sơn, tiên khán thủy.
Muốn cho xem tường tận, thì trước phải xem thủy, sau mới xem đến sơn. Còn muốn xem vội thì ngược lại, ta xem sơn trước, sau mới xem đến thủy.
Câu 9: Mạch hữu liên sơn nhi hạ, hữu độ giang nhi lai, hoặc mã đề nhi hành, hoặc bàng hồng nhi khởi.
Mạch có khi đi liền liền, từ núi cao chạy xuống lại có khi mạch qua sông mà lại, cũng có khi mạch đi lỗ chỗ như vết chân ngựa, hoặc có lúc lặn qua ruộng rồi mới nổi lên.
Câu 10: Thiết thiết tường kỳ bát tự thủy phân, khẩu hiện kỳ lưỡng chi, sơn dẫn hữu thuận thế, nghịch thế, hữu hồi long, hoành long.
Nhưng trước hết phải tìm long xuất tổ đi ra phải có “bát tự thủy phân” (2 bên có 2 giòng nước). Long đi có thể đi thuận theo dòng nước, từ ngọn nước đi xuôi (thuận long) và cũng có thể đi nghịch với chiều xuôi của dòng nước (nghịch long - hồi long), hoặc bỏ dòng nước mà quay ngang đi xa xa (hoành long).
Câu 11: Thuận giả, cầu kỳ nghịch, nghịch giả cầu kỳ thuận, thuận nghịch cầu kỳ chứng tá, hồi hoành cầu kỳ thác lạc.
Long đi thuận phải tìm nghịch, long đi nghịch phải tìm thuận - Thuận nghịch phải tìm chứng tá - Muốn biết hồi hoành ta tìm thác lạc.
Câu 12: Địa thế bản tự Bắc chí Nam, kiến kỳ nghịch hành vi quý
Trên nguyên tắc, long đi thuận là từ Bắc xuống Nam (cũng có khi từ Tây Bắc xuống Đông Nam) - Nếu long đi nghịch lại “thế thuận” của long quý.
Câu 13: Thủy thế bản Đông quy, bối tây kiến kỳ khúc khuất vi kỳ.
Cũng trên nguyên tắc thì thủy chạy từ Tây sang Đông, (ở Trung Quốc) cũng có khi từ Tây Bắc xuống Đông Nam (ở Việt Nam) nếu sau lưng ở phía Tây mà thấy nước chảy khuất khúc là nước hạ (thủy tốt).
Câu 14: Đại tiểu nhất đốn khởi thành quách vi đại địa. Tiểu hình thế bạc, đơn vị tiểu địa
Lớn nhỏ núi cũng chỉ khi đốn khi khởi, nhưng nếu có thành quách bao vây thì lại đại địa. Còn nếu thấy núi nhỏ bé, thế đơn côi bạc mỏng là tiểu địa.
Câu 15: Liên sơn tầm kỳ phiên thân.
Hạ sa quan kỳ hồi đầu
Nếu thấy dãy núi liền liền ta tìm chỗ nó trở mình.
Nếu thấy núi soải xuống thấp ta xem chỗ nó quay đầu.
Câu 16: Đại địa giả, tầm yêu, lý, hạc.
Tiểu địa giả, tầm đầu khí thụ.
Nếu là đại địa ta tìm chỗ huyệt tọa lạc trên lưng.
Nếu là tiểu địa ta tìm chỗ thụ khí ở đầu.
Câu 17: Tam chi tề hành đoản giả vi chân
Lưỡng mạch tịnh hành, nghịch giả vi quý.
Nếu thấy ba chi cùng đi thì chi nào ngắn nhất là thật. Nếu thấy hai mạch cùng đi, thì mạch nào quay ngược lại là quý.
Câu 18: Thuận giả, tầm kỳ chính mạch
Kỵ giả tầm kỳ tích
Thế long thuận ta tìm chính mạch.
Thế kỵ ta tìm sống lưng.
Câu 19: Uyển chuyển giả, tầm trực
Chân ngạnh giả, vật thứ
Mạch đi uyển chuyển ta tìm chỗ ngay ngắn.
Mạch đi thô ngạnh ta không dừng.
Câu 20: Mạch hành như qua đằng, đa hữu mạch.
Mạch đi như dây dưa (sinh động khi quay sang phải khi quay sang trái) là có nhiều chỗ đi đến đất kết.
Câu 21: Như thảo vĩ thiếu chân, bác long hoán cốt tầm lão long sinh nộn.
Mạch đi lờ mờ như vệt đuôi rắn luồn trong cỏ là hình tích long đang “bác long hoán cốt” (chuyển từ hùng dũng sang nhu hòa) ta tìm xem lão long sinh ra long trẻ, long non tơ (rất tốt).
Câu 22: Nhược kiến nhất trùng bảo khỏe, nhất trùng khai, đích hữu công hầu tại thử gian.
Nhất sơn loạn bảo, nhất sơn cố, đích hữu công khanh cư thử trú.
Nếu thấy thế núi:
- Một lần bao bọc, một lần mở ra là đích thực có đất công hầu tại chỗ này.
- Lại thấy một núi vòng ôm, một núi ngoảnh lại cũng là đích thực có đất rộng công khanh ở nơi này.
Câu 23: Bình điền bình địa khởi sơn lôi, sơn túc hữu huyệt tại thử gian.
Bình điền bình địa khởi thạch đa, đa sa hữu huyệt đa cát khánh.
Nơi bình điền bình địa mà thấy có núi cao nổi lên thì chân núi hay có huyệt. Cũng nơi bình điền bình địa mà thấy nổi lên cát đá, thì hay có huyệt tốt.
Câu 24: Chúng sơn cao tầm đê
Chúng sơn đê tầm cao.
Chung quanh nhiều núi cao ta tìm huyệt ở chỗ thấp.
Chung quanh đều thấp ta tìm huyệt ở chỗ cao.
Câu 25: Thập trường nhất đoản giả vi chân.
Thập đoản nhất trường giả vi chủ.
Mười cái dài có một cái ngắn thì cái ngắn là thật.
Mười cái ngắn có một cái dài thì cái dài làm chủ.
Câu 26: Bình địa tầm hạc tất, phong yêu, đại phụ quan toán sà hôi.
Nơi bình địa ta tìm chỗ gối hạc lưng ong, nơi gò lớn ta tìm vết mạch nổi lên như rắn bò trên cỏ.
Câu 27: Duyên khúc mạch nhận kỳ châu.
Chân mạch tầm kỳ khúc.
Mạch quanh co ta tìm chỗ thực.
Mạch thực ta tìm chỗ quanh co.
Câu 28: Tầm địa chi pháp, tiên vấn tổ tông, khước tòng chi mạch, khán hành tung tích chân long tận xứ, kham vi dụng đích. Hậu long tiên, mạc kiến trùng trùng đốn khởi, tiền nghênh tống, hậu nghinh, phong bất xuy, mạch bất đoạn, chúng thủy giao hợp, nội vi thành, ngoại vi quách, thủy khẩu quan lan - Thử đại địa giả.
Phàm tìm đất trước hết hỏi tổ tông, rồi lại từ đó xem các chi nhánh. Coi xem tung tích chân long đi đến chỗ nào là cùng xứ, đáng dùng được.
Như phía hậu long, thấy có màn trướng trùng trùng đốn khởi - Đằng trước có đón, đằng sau có đưa - Lại có chỗ gió không thổi suốt tới (tàng phong mới tụ khí) – và mạch không bị đứt đoạn - lại thêm có nhiều thủy giao hội – mà bên trong có thành, bên ngoài có quách - lại thêm có thủy khẩu rành mạch. Đấy chính là đại địa vận vậy.
Câu 29: Nhược kiến nhất chi sơn, nhất phái thủy, đơn hổ, đơn long, đơn sơn dẫn, đơn thủy sở tòng, tiểu địa giả.
Tầm long bất dị, điểm huyệt vưu nan.
Còn thấy có một chi sơn, một phái thủy, một đơn long, một đơn hổ, một núi hướng dẫn, một nước chảy theo, chỉ là tiểu địa thôi.
Tầm long không dễ, mà điểm huyệt càng khó vậy.
CÁC KIỂU ĐẤT QUÝ
THÁI CỰC CHI ĐỒ
Đệ nhất cách
HỮU ĐỆ NHẤT CÁCH
Thiền thiều mạch khởi tố phương la
Nhập não tu cầu lưỡng thủy lai
Hậu hợp đường tiền tiên tối hảo
Tự nhiên phú quý đích vô sai.
CÁCH THỨ NHẤT
Đùn đùn mạch tự tổ sơn lai.
Đến huyệt hai dòng nước khép đai
Thủy hậu hợp tiền, hồ nguyệt ánh.
Giàu sang đoán trước tất không sai.
CHƯƠNG II
ĐIỂM HUYỆT
A. HƯỚNG DẪN PHẦN ĐIỂM HUYỆT
Điểm huyệt là phép tìm ra chỗ đúng của huyệt trường. Cũng theo phép quân bình âm dương, cao thấp mà điểm nơi huyệt trường có hình: Oa hoặc Kiềm hoặc Nhũ hoặc Đột. Thường mạch nơi sơn cước ta dùng Oa và Kiềm, mạch nơi bình dương (đất bằng) ta dùng Nhũ, Đột.
Mạch sơn cước chỗ đầu núi cúi xuống gặp nước hay gặp đất bằng mà kết thì hay có hình oa hay hình kiềm. Còn đồng bằng mà nổi lên kết thì hay có nhũ và đột. Đột là cao lên như cái gò nhỏ, còn nhũ là cao lên và dài như cái vú quả mướp.
Điểm huyệt ở huyệt hình Kim, khác điểm ở hình Mộc, khác hình Thủy, khác hình Hỏa, khác hình Thổ. Ngoài khi điểm huyệt cũng nên chú trọng đến những ngấn nước ở hai bên huyệt ta gọi là hà tu thủy. Ta cũng cần chú trọng đến những bông cỏ xanh tươi hoặc những mô cao thấp một chút. Huyệt điểm cao quá thì sát, thấp quá thì yếu. Ngoài ra, tay long, tay hổ dài ngắn cũng ảnh hưởng đến phép điểm huyệt, án cao, thấp cũng thế.
B. ĐIỂM HUYỆT
Câu 1: Sơn cốc tựu kỳ oa túc
Bình dương tựu kỳ đột lĩnh.
Nơi sơn cốc huyệt ở noi oa thấp.
Vũng bình dương tuyệt ở chỗ đột kết.
Luận câu 1:
Sơn cao úy phong xuy, thực lăng cố cổ tầm oa xứ, sơn túc điểm chi, xứ phong bất xuy giả. Tha sơn cao tụ khí thái khí giả, như nhân chi nguyên khí, do ngạnh tác bất chung đa, tắc âm nhu nan tầm oa xứ, cập sơn túc sử khí chung bất phong xuy giả, - bình dương đa bạc địa, khí tụ ư cao hậu đột lĩnh chi xứ, cố tầm đột táng sử chi, khí bất bạc giả.
Nơi núi cao ta sợ gió thổi nên phải tìm chỗ vững thấy (oa) nơi chân núi mà điểm, khiến cho gió không thổi tới được.
Bởi núi cao mà tụ khí thì khí quá mạnh, khí ở đây như nguyên khí của người nên chỗ cương ngạnh (chỗ cao) có gió thổi thì khí không tụ, ta phải tìm chỗ ôn nhu ở chỗ khai oa ở chân núi để cho khí chung tụ (không bị gió thổi tới).
Còn nơi bình dương khí bạc, ta lại phải tìm chỗ khí là tránh chỗ khí đơn bạc.
Câu 2: Chứng tá vô như vượng tướng.
Cao đê bất thất tụ chung.
Nhiều chứng tá không bằng chứng tá vượng tướng.
Đất cao thấp, không thể để mất chỗ tụ chung.
Luận câu 2:
Phàm huyệt tả hữu thượng hạ, chứng tá quân bình, thế đại nan y thừa kỳ vượng tướng. Mạch thừa kỳ Bính Tý, Canh Tý chi loại, nhi tỵ cô hư chi khí. Hoặc cao hoặc đê, nan y giả dã, tất thừa kỳ chung tụ chi khí, nhi thiên chi chung tụ giả - viên hậu phì nhũ, thổ bao chung tú, thảo mộc thanh tú dị giả. Nhược chung tụ câu đại nan cứ giã. Thượng lập chuẩn tiêu ư mạch ưng đáo xứ khởi huyệt xứ, hạ lập chuẩn tiêu ư nậu tận, thủy hợp lưu xứ.
Thượng khởi hộ nhi hạ, hạ khởi bộ nhi thượng, phàm bộ chi xích thốn, hợp đoản thiểu.
Hạ kế: Kiên, Trừ, Mãn, Bình, Định, Chấp, Phá, Nguy, Thành, Thâu, Khai, Bế.
Thượng kế: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Canh, Tân, Nhâm, Quý.
Nhi trực ngộ xuất xứ
a. Hạ đắc: Bình, Định, Thành, Khai.
b. Thượng đắc: Giáp, Ất, Canh, Tân
Tiết điểm chi
Nhược huyệt như đích hữu chứng tá, an thập đạo táng.
a. Ngộ Kiến, Phá, Trừ, Mậu, Kỷ, Quý: Tiên sát tam nhân, hậu phát.
b. Ngộ Chấp, Bế, Ất, Đinh - Bất phát, hưu kiến đại tai.
c. Ngộ Mãn, Thâu, Bình, Chi.
Phàm huyệt tả hữu trên dưới có chứng tá, quân bình thế rộng lớn, khó mà căn cứ, thì ta phải thừa mạch Vượng, Tướng, ví dụ như mạch nên thừa Bính Tý (nếu là Nhâm Long) Canh Tý (nếu là Tý Long) và tránh khí Cô Hư (Giáp Tý, Mậu Tý, Nhâm Tý).
Còn mạch cao thấp khó mà căn cứ nên phải thừa vào chỗ Khí chung tụ để táng huyệt. Chung tụ là chỗ viên hậu, phì nhu, có sắc thổ tốt đẹp, cỏ cây xanh tươi đó là đất lạ.
Nếu chỗ chung tụ mà rộng thì cũng khó mà căn cứ được, ta lại phải lập tiêu chuẩn.
Lập một tiêu chuẩn ở chỗ khởi huyệt (bên trên).
Lập một tiêu chuẩn ở chỗ khởi lưu (bên dưới). Rồi đi từ phía trên đi xuống, phía dưới đi lên. (Bằng cỡ chân bước ngắn, dãy đều nhau).
Khi bước từ dưới lên đếm (tuần tự đọc): Kiên - Trừ - Mãn – Bình - Định - Chấp – Phá – Nguy – Thành – Thâu – Khai - Bế.
Còn bước từ trên xuống ta đọc: Giáp - Ất – Bính – Đinh – Canh – Tân – Nhâm – Quý.
Mỗi bước một chữ
Khi trên dưới gặp nhau mà:
a. Phía dưới đi lên gặp chữ Bính – Đinh – Thành khai.
b. Phía trên đi xuống gặp chữ Giáp - Ất – Canh – Tân.
Tức là điểm đúng huyệt rồi đó
Còn như huyệt có đủ chứng tá phân minh thì ta chăng dây hình chữ thập (một dây chiều trước sau, và một dây chiều phải trái) để làm đích mà táng.
Lúc táng mà được Kiên, Phá, Trừ, Mậu, Kỷ, Quý thì trước phải bị sát 3 người sau mới phát.
Còn gặp được Chấp, Bế, Ất, Đinh thì không có phát và gặp tai họa dữ dội.
Còn gặp ngay Mãn, Thâu thì bình thường.
Câu 3: Mạch thừa tả hữu, bất câu tả hữu
Địa hữu minh ám, tu biện minh ám.
Mạch nhận tả hữu mà không câu nệ tả hữu.
Đất có minh ám, nên biện biệt minh ám.
Luận câu 3:
Kỳ pháp, mạch tòng tả lai, khí chung vu hữu. Mạch tòng hữu lai, khí chung vô tả. Diệc nhiên, địa nhất minh, nhất ám, nhất hư, nhất thực.
a. Minh giả: mạch thùy giáng khai minh, thủy tiểu tiểu vi mang dã.
b. Ám giả: chúng tương hành
c. Hư giả: nhuyễn nhược bạc dã.
d. Thực giả: viên vụng, phi hậu tú khí dã
Tại nơi điểm huyệt, nếu thấy mạch từ tả đến (nhiều khi tả cao, hữu thấp) thì khí chếch sang bên hữu (nên điểm huyệt sang bên phải).
Và nếu thấy mạch từ hữu sang tả (khi hữu cao tả thấp) thì khí tụ chếch sang bên tả (nên điểm huyệt sang bên trái).
Cũng tại nơi điểm huyệt, nếu thấy đất một bên minh, một bên ám, hoặc một bên hư một bên thực, cũng phải biết mà liệu điểm huyệt thì mới trúng nơi khí chung tụ.
a. Minh là mạch rủ xuống, trông thấy rõ.
b. Ám thì lờ mờ khó nhận.
c. Hư là mềm yếu mỏng manh.
d. Thực là quầng tròn và đầy đặn.
Vì vậy nếu thấy đất Minh thì dễ, còn đất Ám, ta phải coi thêm kỹ các chứng ứng như: Long, Hổ, Ám v.v... Còn đất Thực thì ta chọn chỗ thực mà bỏ chỗ hư - Bởi hư thì khí bạc mà thực thì mới có tú khí.
Câu 4: Cấp lai hoãn thụ, Hoãn lai cấp thụ
Âm lai dương thụ, Dương lai âm thụ
Mạch cấp lại thì chỗ Hoãn là kết. Hoãn lại thì chỗ cấp là kết.
Mạch Âm lại thì chỗ Dương là kết và mạch Dương lại thì chỗ Âm là kết.
Luận câu 4:
Địa hữu hoãn hữu cấp, như nhân hữu nhược hữu cường. Cấp giả, cao đại, huyệt tại Kiềm Nhũ. Hoãn giả vi tiểu, đê bạc.
Phàm lai long nhị tam tiết giai hùng, Cấp tựu kỳ Oa Kiềm, sơn túc chi xứ điểm chi.
Sơn cao vi âm, đê giả vi dương. Quần sơn giai cao, tầm kỳ đê xứ nhi điểm.
Chúng sơn giai đê, tầm kỳ cao xứ nhi điểm chi. Diệc cứ âm lai dương thụ chi nghĩa dã.
Mạch có hoãn có cấp, như người ta có nhược có cường. Cấp thì cao lớn: Huyệt tại Kiềm Nhũ. Còn Hoãn thì nhỏ bé, thấp bạc.
Phàm lai long hai ba tiết đều hùng mạnh là Cấp huyệt ở Oa, Kiềm nơi chân núi mà điểm.
Còn sau huyệt mà thấy sơn bằng phẳng, nhuyễn nhược thì phải tìm chỗ đột cao lên ở huyệt trường mà điểm (nơi đột lĩnh).
Sơn cao là Âm, thấp là dương. Đám sơn đều cao ta chọn chỗ thấp mà điểm huyệt.
Các sơn đều thấp, tìm chỗ cao mà điểm huyệt. Đây là căn cứ vào nghĩa câu:
Âm lai dương thụ - Dương lai âm thụ.
Câu 5: Quan mạch tương tiếp, bất sai
Khí mạch kiêmthu, hữu hiệu.
Quan với mạch nối tiếp nhau là đúng phép.
Khí với mạch gồm thu cả mới hữu hiệu.
Luận câu 5:
Điểm huyệt chi pháp, sử quan bất ly mạch, mạch bất ly quan, nhược bất sai chi như mãn cư tán dã. Chính li vi mạch, lưỡng biên vi khí, yếu đắc kiêm thu nhập huyệt, thủy phát phúc hữu hiệu giả dã. Điểm huyệt là phép tìm chỗ cho quan không xa lìa mạch, mạch không xa lìa quan, phải như vậy mới được kết. Chính giữa là mạch thì hai bên là khí, cần phải cả khí lẫn mạch đều được kiêm thu vào huyệt thì việc phát phúc mới hữu hiệu.
Câu 6: Kim dụng Oa, Mộc dụng Tiết, diệu tại nhẫn suy. Thủy tầm khúc, Thổ tại Giốc, tựu chung linh tại nhỡn kiến.
Huyệt trường hình Kim (tròn) thì huyệt dụng Oa. Hình mộc (dài) thì kiếm chỗ Đốt (mắt) khéo léo ở mắt quan sát. Hình thủy (hình vòng vèo, méo) thì tìm huyệt ở chỗ Khúc (cong mập).
Hình thổ thì ở nơi góc (nếu có khác mấy góc kia) hoặc ở giữa (nếu 4 góc giống nhau) đó là hình lợi ở mắt nhìn.
Luận câu 6:
Kim viên hình, tựu oa nhi oa thủ. Vô oa tựu khai – nhi long, hổ, chủ, khách hữu tình tức tu khai tắc kim oa. Cố viết diệu tại nhãn suy.
Mộc bản cao kỳ tiết, vô tiết tầm ảnh, nhược vô tiết, ảnh, nhi sơn thủy hữu tình, tắc khí qui căn, nghi tác niêm căn (gốc).
Thổ tinh huyệt tại Giốc. Nhước bất minh tắc mạch quán trung, vi chính nghi huyệt tâm.
Thủy tinh nhược, đang tầm khúc xứ - Thủy tùy mạch nhi điểm - Cố viết linh tại nhãn kiến dã.
Kim hình tròn, ta kiếm chỗ vụng (oa) làm huyệt. Nếu không thấy chỗ vụng (oa) thì tìm chỗ Khai hoa (biến thể của oa) mà có long, hổ, chủ, khách hữu tình thi chính chỗ khai hoa này thay thế cho hình Oa (chỗ vụng) làm huyệt cho huyệt trường hình kim. Nên mới nói là khéo léo ở mắt quan sát.
Hình Mộc (dài) thì quý ở chỗ Đốt (mắt của cây). Nếu không thấy đốt (mắt của cây) thì ta tìm cái bóng của Đốt. Trường hợp không có đốt, lại không có cả bóng của đốt nữa, mà thấy sơn thủy hữu tình thì khí mạch tụ ở gốc (căn). Nên điểm sát gốc.
Thổ tinh (huyệt trường vuông hoặc chữ nhật) thì huyệt hay ở vào một góc (góc có hình tích khai huyệt và ngoài có long hổ vòng ôm).
Nếu các góc không có huyệt thì khí mạch đều tụ ở chính giữa. Nó chính là huyệt tâm, trường hợp 4 mặt cao giữa thấp, hoặc 4 mặt bằng mà giữa nổi lên hình Kim thì lại càng đúng.
Thủy tinh thì khí nhu nhược, ta nên tìm ở chỗ cong (phì hậu) mà điểm (phải có chứng ứng như long, hổ, án, sa). Như trên trình bày ta tùy mạch mà điểm, nên mới nói là linh ở mắt nhìn.
Câu 7: Hỏa tinh thập cá cửu không, biến kỳ quý khí đương cầu.
Kỵ long thập cá cửu giả, nhận kỳ thực huyệt vi thủ.
Hỏa tinh thì mười cái có 9 cái không, nếu thấy có quý khí mới nên tìm.
Kỵ long thì mười cái có 9 cái giả, nên tìm chỗ thực huyệt mà lấy.
Luận câu 7:
Hỏa bản tiêm đầu vô huyệt, nhược hỏa hình như đầu đại phì, tú khí tắc họa tuyệt ư phì xứ - Kỳ tọa hoành đạp hoành sử bất kiến tiêm đầu hỏa, cố viết chiên hỏa cách. Kỵ long đại địa bất kết ư tận xứ, cố viết kết chi ư nội, tiền hậu giai xung, giáp huyệt; phong bất chí, thử bất sinh, tầm kỳ chính tích, hoặc Oa, Kiềm, Nhũ, Đột. Minh tiền hiển hậu, đương nhận thử chi.
Kỵ hữu, thuận kỵ, đảo kỵ, hoành kỵ.
Thuận kỵ, lai sơn tác huyệt, khứ sơn tác án.
Đảo kỵ giả, khứ sơn tác huyệt lai sơn tác án.
Hoành kỵ, tống sơn tác tuyệt, nhược huyệt vật dụng dã.
Phàm kỵ long, sơn bảo hành thủy do phân, thập cá cửu không dã.
Nhược Long tụ, thủy giao, hữu chân huyệt, phát phúc vĩnh niên giả.
Hình hỏa nhọn đầu vốn không có huyệt. Nếu hỏa hình mà đầu mập lớn, có tú khí thời tọa tuyệt ở chỗ đầu mập. Nhưng dù chọn chỗ đầy mập cũng phải “tọa hoành, đạp hoành” nghĩa là làm sao chỗ ngồi của huyệt không còn nhìn thấy chỗ nhọn đầu của hình hỏa (hình nhọn) được. Phép này gọi là “Tiễn hỏa cách”.
Thế kỵ long (ngồi trên lưng long, còn xa mới tới minh đường) hay ở những ngôi đất lớn. Kỵ long thì huyệt không kết ở nơi tận xứ (gần minh đường) mà kết ở ngay trong (trên lưng) long, và trước sau của nó đều vệ giáp vào huyệt. Phải là chỗ mà gió không thổi tới, nắng không tới. Huyệt ở trên sống lưng long có thể là Oa - Kiềm – Nhũ hoặc Đột nhưng phải là chỗ trước, sau (những chứng ứng) phải minh hiển, rõ rệt.
Nói về kỵ long ta có cách:
1. Thuận kỵ (huyệt nhìn xuôi)
2. Đảo kỵ (huyệt nhìn nghịch)
3. Hoành kỵ (huyệt nhìn ngang)
a. Thuận kỵ thì lai sơn (sơn đến) làm huyệt và khứ sơn (sơn đi) làm án.
b. Đảo kỵ thì khứ sơn (sơn đi) làm huyệt, và lai sơn (sơn đến) làm án.
c. Hoành kỵ thì tống sơn (sơn tiễn) làm huyệt và nghinh sơn làm án.
Tuy nhiên, kỵ long mà thấy huyệt không chính xác thì chớ có dùng.
Phàm kỵ long mà sờn của long còn chạy đi, nước chưa tụ thì mưới cái có đến 9 cái không.
Còn khi thấy chắc chắn long đã đinh, thủy đã giao thì mới là chân huyệt. Sẽ phát phúc vĩnh viễn vậy.
Câu 8: Thổ tinh hữu huyền lăng, cá cá giai thị.
Thổ huyệt hữu triều ảnh, nhất nhất giai chân
Thổ tinh mà có “huyền lăng” thì cái nào cũng phải.
Thổ huyệt mà có “triều ảnh” thì nhất nhất đều trúng.
Luận câu 8:
Thổ tinh vi bình, tứ diện thành khởi, tựu trung nhi bất nghi, triều ảnh gia vận chi trung, lưỡng biên vệ huyệt, thiên vũ thủy vọng chi ảnh vimang, hợp ư vận nhi điểm huyệt chi, bất sai huyệt dã.
Thổ tinh bằng phẳng mà 4 phía chung quanh có thành cao lên thì huyệt kết tại chính giữa, không còn hoài nghi gì nữa.
Triều ảnh là ở trong vầng quầng mà hai bên có vệ huyệt, khi trời mưa nhìn thấy ánh nước lờ mờ, hợp với vầng quầng, ta điểm huyệt thì hẳn là đúng huyệt.
Câu 9: Hà tu nhất thể
Giải nhỡn lưỡng đầu
Râu tôm một thể
Mắt cua hai đầu.
Luận câu 9:
Hà tu giả, vi thủy vệ huyệt, dị kiến, chí nhược.
- Giải nhỡn, tả hành tắc tả biên minh, hữu biên ám. Tùy án tiền nhi điểm chi dã.
Râu tôm, hà tu là cái vi thủy (thủy nhỏ bé) vệ huyệt dễ nhìn thấy.
Mắt cua (giải nhỡn) thì nếu mạch đi tả biên thì tả biên rõ hữu biên mờ. Trường hợp này thì theo án đằng trước mà điểm huyệt.
Câu 10: Sơn bất hứa ư trực xung
Mạch trực sử ư quán nhĩ.
Sơn không nên đi thẳng đến huyệt.
Mạch trực nên cho vào (tài liệu mờ)
Luận câu 10:
Sơn mạch trực nhập, nhi tọa chi vị chi đấu, mạch sát, thả như:
a. Dậu long, tọa Dậu hướng Mão
b. Hợi long, tọa Hợi hướng Tỵ chi loại.
Phạm huyệt trực nhập, tác phân kim, thiên hướng sử mạch quán nhĩ, mạch nhập nhị dã.
Sơn mạch chạy thẳng vào quan là “đấu sát” (đấu mạch bị sát). Ví dụ như:
a. Dậu long mà tọa Dậu hướng Mão.
b. Hợi long mà tọa Hợi hướng Tỵ.
Là mạch xông thẳng vào quan.
Phàm huyệt mà trực nhập thì phân kim phải cho mạch đi xiên (khiến cho mạch không đâm thẳng vào não. Phải cho mạch nhập nhĩ, gọi là mạch vào tai vậy).
Câu 11: Sở quý cầu mạch thảo xà
Sở ái lâm điền bộ ảnh
Đáng quý, mạch như rắn bò trên cỏ
Đáng yêu mạch như bóng hiện trên ruộng
Luận câu 11:
Thảo xà mạch, hành như xà nhập dư tất tâm truyền thụ.
Ảnh giả, truyền giốc điền mạch dã.
Mạhc hành bình điền, nhận điều giốc bán thốn vi cao vọng chi, như ảnh tùy thân, khai khẩu minh dịch nhi điểm chi.
Thảo xà là mạch đi nhu rắn bò trên cỏ (hơi gợi lên).
Ta đã được tâm truyền thụ thụ.
Ảnh là mạch truyền góc ruộng. Đó là mạch đi ở bình điền, nhận thấy ở góc ruộng hơi cao lên (độ 1 tấc) trông nó như là bóng theo người. Tìm chỗ khai khẩu, hiện rõ mà điểm.
Câu 12: Tiêm đầu mạc hạ
Thử vĩ hưu thiên
Nhọn đầu đừng có hạ
Đuôi chuột chớ nên rời.
Luận câu 12:
Tiêm đầu khí bất tụ, thử vĩ khí bất chung. Phàm hình như tiêm đầu thử vị, tế tiểu nhi điểm khí bất chung dã.
Nhọn đầu khí không tụ, đuôi chuột khí không chung. Phàm mạch bé, hình đầu nhọn, hình đuôi chuột điểm ở chỗ nhọn chỗ nhỏ đó thì không có khí tụ vậy.
Câu 13: Án long tỵ vật thượng ư thần
Táng quy kiên, vật dụng ư sác.
Để ở mũi rồng, thì chớ cho xuống môi.
Táng trên vai rùa thì đừng cho lên mai.
Luận câu 13:
Long bản quý khí tại tỵ - Nghi điểm chi Quy bản huyệt tại kiên, vật dụng ư sác dã. Long điểm ư thần, tận khí dã.
Rồng vốn quý ở nơi mũi (nói chung là huyệt ở chỗ khí chung tu nên điểm vào mũi, chớ điểm thấp xuống mồm rồng. Rùa, nếu huyệt ở vai (nói chung là huyệt ở chỗ khí chung tụ) nên điểm vào vai (chớ điểm cao lên mai rùa).
Như trên, nếu rồng có khi chung tụ ở mũi mà điểm xuống quá thấp là điểm ở chỗ tận khí (không tốt).
Cũng như trên, nếu rùa có khí chung tụ ở vai mà điểm cao lên mai, thì bị sát, không tốt.
Câu 14: Thạch sơn tầm thổ huyệt
Thổ huyệt tầm thạch long.
Núi đã kiếm thổ huyệt
Thổ huyệt tìm thạch long
Luận câu 14:
Phàm thạch sơn bản vô huyệt, nhược kiến oa hình, thổ nhuận nghi điểm chi, giác thư vi quý. Nhược vô thạch mạch tụ, tựu hạ ư thổ xứ điểm chi.
Phàm núi đá vốn không có huyệt. Nếu núi đá mà thấy ở chỗ vụng (oa) có đất mềm thì nên chú ý mà điểm huyệt – Thư thái là quý.
Còn như không thấy khí mạch trên núi đá thì ta tìm xuống dưới chỗ có đất mà điểm.
Câu 15: Thạch thượng nghi táng
Thủy để diệc thiên.
Trên núi đá cũng có cách táng.
Dưới nước cũng có cách dời xuống.
Luận câu 15:
Thạch giả như nhân chi cốt, phàm cốt ngạnh, vô huyệt, nhược kiến tả hữu, hữu tình, tiền hậu phân minh, tú khí tụ chung, thổ diện giai thạch - Bất nghi phủ định quật chi - Kỳ pháp, trí quan ư thạch thượng, dĩ khách thổ bồi chi – Cao hậu ngũ xích diệt phát phúc dã.
Nhược chí mạch hành hoạt long, hoạt xà, quý sơn sở dẫn, quý thủy sơ tòng, đáo xứ bất biến huyệt, hoặc trì hồ tĩnh thủy bất động, hữu khởi tinh phong, hữu thực, thị thủy để huyệt nghi táng chi.
Đá cũng như xương người, phàm cốt, thì thô ngạnh, không có huyệt, nhưng thấy tả hữu mà hữu tình, trước sau phân minh, có tú khí chung tụ, mà trên mặt đất chỉ thấy có đá không có đất thì ta chớ nên dùng đinh và búa mà đào khoét xuống (làm huyệt). Ta phải dùng phép đặt quan tài trên đá, rồi lấy đất chỗ khác đem đến đắp lên. Đắp cao độ 5 thước (thước ta độ 25cm) cũng phát phúc vậy.
Còn nếu mạch đi hoạt long, hoạt xà, có quý sơn dẫn dắt, quý thủy đi theo, tới chỗ thích ứng mà không thấy huyệt mà thấy nơi đó có nước hồ trong sạch, êm tịnh bất động lại thấy (có chứng ứng) tinh phong khởi lên. Đó là có huyệt chim dưới nước. Ta nên tìm cách táng ở đó.
Câu 16: Phản thủ tắc niêm cao cốt.
Khúc bối tu ỷ tùy đầu.
Đất như bàn tay úp thì cốt lộ lên cao
Đất như khum lưng xuống thì kết huyện ở chỗ khum.
Luận câu 16:
Cốt giả sơn chi khởi phong, sơn hành như thủ chi phản, tầm kỳ cốt nhi điểm chi. Sơn đầu, cốt thủy đầu, tựu ư đầu, huyệt điểm chi.
Cốt là chỗ khởi phong của núi - Nếu thế núi như bàn tay úp, ta tìm chỗ cốt lộ mà điểm.
Xương đầu núi cúi khom xuống, ta tới chỗ đầu núi, tìm huyệt mà điểm.
Câu 17: Hiển đột bất dị ư đột thượng. Minh nhũ bất ly ư nhũ trùng.
Kiềm tác kỳ ỷ - Oa tác kỳ chi.
Hiển đột không rời khỏi “mặt đột”. Minh nhũ không lìa quá “trong nhũ” - Kiềm thời táng “ỷ” (ỷ là chỗ tựa). Oa thời táng “chi” (chỉ là chỗ ngưng).
Luận câu 17:
Thế hữu thiên đoan vạn hình, bất quá tứ thế: Oa - Kiềm – Nhũ - Đột.
Thế đất có nghìn vạn đoạn hình, nhưng điểm huyệt chẳng qua 4 thế là: Oa - Kiềm – Nhũ - Đột.
Câu 18: Tả hữu đầu trường, huyệt cư Nam
Tả hữu đầu đoản, huyệt cư Bắc.
Hai bên đầu tả hữu (long, hổ) dài, huyệt ở Nam. Hai bên đầu tả hữu (long, hổ) ngắn, huyệt ở Bắc (gần).
Luận câu 18:
Phàm huyệt thí như anh nhi, tả hữu như thế sở cầu. Tả hữu trường tắc nguyệt ngoại của tả hữu đoản tắc huyệt nội trú.
Đại khái huyệt cũng ví như đứa trẻ (được hai tay long hổ ôm bế che đỡ). Tả (long) hữu (hổ) cũng ví như người dìu dắt nó.
Tả hữu (long hổ) dài thì huyệt ở ngoài xa. Tả hữu (long hổ) ngắn thì huyệt ở trong gần.
Lưu ý: Bởi thế núi, nguyên tắc đi từ Bắc xuống nên nói Nm là nói ở xa, nói Bắc là nói ở gần. Và các vị thâm nho kể cũng thâm thật.
Câu 19: Ngoại kháng tầm nội mật
Nội cùng mịch ngoại thư.
Rộng rãi không khoáng thì tìm kín đáo bên trong.
Bức bách chật hẹp thì tìm thênh thang bên ngoài.
Luận câu 19:
Phàm huyệt hữu thế, hữu hình, minh đường khoảng khoát tất di, sử ư tiền hữu vi, cao dĩ yểm tâm dã. Nhược nội bức thái quá giả, nghi tựu mịch ư ngoại thư giả điểm chi.
Phàm huyệt có thế, có hình, nếu minh đường rộng rãi, phải rời xa xa, khiến cho đằng trước có chỗ hơi cao để che trước ngực. Nếu bên trong bức bách quá, kiếm chỗ thư thái bên ngoài mà điểm.
Câu 20: Tả động tả tầm
Hữu động hữu tầm.
Bên tả động, tìm huyệt bên tả. Bên hữu động tìm huyệt bên hữu (chỗ động, chỗ trông khang khác là chỗ khai huyệt).
Luận câu 20:
Truyền ngôn: thị Mộc, thị Kim, động trung thủ huyệt
Lời truyền rằng: Dù hình Mộc, dù hình Kim, cứ trông chỗ động mà tìm huyệt.
Câu 21: Minh Đường hiệp đê xứ điểm.
Minh Đường khoan cao xứ tầm.
Minh đường hẹp, điểm huyệt chỗ thấp. Minh đường rộng, điểm huyệt cao (chỗ cao mới bao quát được chỗ rộng).
Luận câu 21:
Hiệp nhi tọa đê, khoan nhị tọa cao. Giai bất hiểu ư đường tất tùy kỳ thế dã.
Câu 22: Chân lai Ngụy lạc, huyệt kỳ chân
Ngụy lai chân lạc, huyệt kỳ ngụy.
Mạch chân lại, mạch ngụy lạc, huyệt ở mạch chân.
Mạch ngụy lại, mạch chân lạc, huyệt ở mạch ngụy.
Luận câu 22:
Mạch hữu chân hữu ngụy, như long hành tam tứ tiết nhi Hợi giao, đáo hữu ngạnh tiết. Tý, Quý hành đáo như hữu minh dịch, diệc tựu Hợi điểm chi.
Mạch có mạch chân mạch ngụy. Nếu long hành ba bốn tiết đến Hợi giao tiếp, có tiết thô ngạnh. Tý quý có nước mạch rõ rệt, cũng theo mạch Hợi đó mà điểm.
Câu 23: Vật ngộ dụng bích lập tàng sơn
Vật ngộ dụng đê điền bạc xứ
Đừng dùng chỗ vách đứng của núi non.
Đừng dùng chỗ bạc nhược của bình dương.
Luận câu 23:
Hậu đầu sơn xứ bích lập cận điểm chi tắc sinh hung họa. Phàm đê điền bạc xứ vô huyệt tất bất dụng.
Nếu điểm huyệt gần vách đứng dựng của hậu đầu sơn thì sẽ sinh tai họa. phàm điểm huyệt mà thấy đất ruộng thấp đê bạc của bình dương thì cũng nên tránh.
Câu 24: Bắc thần lãnh thủy bức án vô phương
Hậu đầu chiết mộc, cận huyệt vật dụng
Phía Bắc có lãnh thủy, dù có án bức cũng vô hại.
Nơi hậu đầu có có chiết mộc, gần huyệt ta chớ nên dùng.
Luận câu 24:
Phàm huyệt tại bình điền, bình địa, tiền án cao nhất xích, cận ngũ bộ bức huyệt, sát hại, Đan Bắc hướng, bất hại. Nhược kiến nhất sơn hậu hoành án như mộc, cận táng đắc hại trướng.
Phàm huyệt ở nơi bình điền, bình địa mà trước huyệt có án cao một thước, ở gần huyệt năm bộ, sẽ bức huyệt, thì bị sát hại. Song, nếu án cao ở phương Bắc thì không hề chi. Nếu thấy núi vắt ngang đằng sau như hình Mộc mà táng gần, thì hại con trưởng.
Câu 25: Cao vật dụng phong xuy
Đê vật dụng thủy phá
Nơi cao đừng dùng huyệt có gió thổi.
Nơi thấp đừng dùng huyệt bị thủy phá.
Luận câu 25:
Cao úy phong xuy, phàm sơn cốc tùy kỳ tàng phong, cố sơn túc điểm chi.
Phàm đê điền vật dụng hậu sơn lưỡng bối cao mãn, hoàn thủy lâm phá hậu đầu, tất tuyệt tự dã.
Huyệt nơi cao phải tránh chỗ gió thổi, phàm huyệt nơi sơn cốc, phải điểm huyệt ở chỗ ít gió (mới tụ được khí). Ta phải kiếm huyệt ở chỗ chân núi mà điểm.
Phàm nơi bình dương (đất thấp) không nên điểm huyệt ở chỗ có hậu sơn mà hai bên huyệt cao đầy, sẽ dễ bị nước tràn phá vào hậu đầu - tất sẽ bị tuyệt tự.
Câu 26: Khai khẩu dụng thị đích
Minh dịch điểm vô sai
Điểm huyệt nơi khai khẩu là đích.
Điểm huyệt chỗ minh dịch không sai.
Luận câu 26:
Khai khẩu cứ khẩu nhi điểm – minh cứ dịch nhi điểm - Vận vô nhất thất dã
Thấy khai khẩu cứ chỗ khẩu mà điểm - Thấy dịch cứ chỗ dịch mà điểm, vạn cái không sai một.
Câu 27: Tứ loan kim vật dụng kim
Tứ loan thủy vật dụng thủy
Bốn kim nhạc đừng dùng kim.
Bốn thủy nhạc đừng dùng thủy.
Luận câu 27:
Tứ loan kim ư tứ phương, thủy dịch.
Bốn hình kim tròn ở bốn phương, thủy cũng như vậy. Trường hợp này mạch cương (kim) thì cương quá, mạch nhu (thủy) thì nhu quá cũng không có đất kết.
Câu 28: Đại để điểm huyệt chi pháp, cầu kỳ nguyệt chi đắc thế, mạch chi sở quán, khí chi sở quán, khí chi sở chung, dĩ các kỳ dư hỹ.
Đại để phép điểm huyệt:
- Cần tìm chỗ đắc thế.
- Mạch suốt tới chỗ quán.
- Khí phải chung tụ.
Là nói bao quát vậy.
Câu 29: Dưới đây là điểm huyệt vào những chỗ khai khẩu và minh dịch của các thế đất. Nếu không khai khẩu phải tìm chỗ long chân huyệt đích mới được, còn nếu cứ theo hình mà điểm huyệt rất dễ sai nhầm.
1. Thụ Đăng giả, điểm ư Đăng Tâm
(Cây đèn thì điểm vào tim đèn)
2. Liên Hoa giả, điểm ư Hoa Nội.
(Hình hoa sen thì điểm trong bông hoa)
3. Ngư tầm Phúc dữ Nhãn.
(Hình con cá tìm ở bụng và mắt).
4. Xà tầm Nhĩ di Tê
(Hình con rắn thì tìm nơi tai và rốn)
5. Tượng hình khán Khổng Tỵ.
(Hình con voi thì xem ở lổ mũi).
6. Ngưu hình khán Phúc Trung
(Hình con trâu thì coi nơi bụng)
7. Kê bão tầm Noãn Thượng
(Hình gà ấp tìm trên trứng)
8. Long hý châu, cầu Châu Trung
(Hình rồng rỡn quả châu tìm trong hạt châu)
9. Phượng ngộ tản phi, khí quy Túc Hạ
(Phượng tan bay thì khí quy ở dưới chân)
10. Phượng hàm thư khí quy Chủy Đầu
(Phượng ngậm sách, khí quy ở đầu mỏ).
11. Xà thính cáp tầm Nhĩ Thượng
(Rắn ngậm trai, tìm ở tai)
12. Long ẩm thủy, tầm Phúc Tề
(Rồng uống nước tìm ở bụng, rốn)
13. Bạch tượng quyến hồ, Hồ Trung thủ
(Bạch tượng cuốn nước trong hồ thì tìm trong hồ)
14. Mãnh hổ xuất sơn, Sơn Thượng tầm
(Mãnh hổ ra khỏi núi thì tìm trên núi)
15. Miên tróc thử, quan Nhãn
(Mèo bắt chuộc coi ở mắt)
16. Tê ngưu vọng nguyệt tầm Mục
(Con tê ngắm trăng tìm ở mắt)
17. Bạch mã ẩm thủy tầm Phúc
(Ngựa trắng uống nước tìm ở bụng)
18. Kim kê kiến xà, tầm Mục
(Kim kê thấy rắn, tìm ở mắt)
19. Quy hạ than tầm Lưỡng Nhãn
(Rùa xuống bến nước tìm ở hai mắt)
20. Quy triều Bắc, mịch Lưỡng Kiên
(Rùa triều hướng Bắc, tìm ở hai vai)
21. Quần dương kiến khuyển, huyệt tại Khuyển
(Đàn dê thấy khuyển, huyệt ở hình khuyển)
22. Quần nga kiến Thi, huyệt tại Thi
(Đàn quạ thấy xác chết, huyệt tại xác)
23. Hoàng xà thổ khí, kiếm Ngoại khí
(Hoàng xà phun khí, kiếm ngoại khí)
24. Sư tử hí châu, Châu Thử mịch
(Sư tử dỡn trâu, tìm quả châu)
25. Ngô công, khán Lưỡng Nhãn.
(Hình con rết xem ở hai mắt).
26. Uyển đình quan Nhất Tề
(Hình con thằn lằn xem ở rốn)
27. Tiên nhân thúc đái, huyệt tại Âm Môn.
(Cô tiên thắt dây lưng huyệt ở âm môn)
28. Mỹ nữ hiển hoa, huyệt cư Nhũ Thượng
(Gái đẹp dâng hoa, huyệt ở trên vú).
MÃ TỬ ĐỒ
Đệ nhị cách
HỮU ĐỆ NHỊ CÁCH
Thê tòng Huyền Vũ, Hổ, Long phân
Tả hữu loan hoàn nhập thử phần
Lưỡng Hổ đới triền thành triết phụ
Trùng Long liên bút xuất hiền nhân.
Đường tiền nguyệt chiếu sinh Tiên nữ
Sơn hậu trùng trùng xuất Tướng quân.
Đại địa khả tri y thử cục.
Đương minh huyệt nội thọ thiên xuân.
CÁCH THỨ HAI
Thế theo Huyền Vũ, Hổ, Long phân,
Phải, trái vòng cong ấp mộ phần
Lưỡng Hổ thêm triền nên vợ tốt,
Trùng Long liền bút xuất hiền nhân
Minh đường trăng chiếu, sinh Tiên nữ
Sơn hậu muôn lần, phát Tướng quân
Đại địa là đây, ai khá biết.
Đường minh gần huyệt, thọ muôn xuân.
CHƯƠNG III
SƠN THỦY PHÁP
A. HƯỚNG DẪN PHẦN SƠN THỦY PHÁP
Sơn thủy pháp là cách xem tướng đất để biết người ra sao.
B. SƠN THỦY PHÁP
Câu 1: Nhân ư hiền ngu, hệ ư sơn thủy
Người để được đất mà hiền hay ngu, là do sơn thủy của cuộc đất đó.
Câu 2: Sơn hậu nhân phì, sơn bạc nhân sấu.
Sơn tịnh nhân hảo, sơn trọc nhân mê
Nếu núi mà đầy đặn thì sinh người mập mạp, nếu núi mà bạc nhược thì sinh người ốm gầy, núi mà tinh thì sinh người tốt giỏi, núi mà ô trọc thì sinh người ngu mê.
Câu 3: Sơn quý kỳ tú, nhi la
Ố kỳ trực ngạnh nhi chí.
Núi quý ở chỗ thanh tú mà đến.
Núi ghét ở chỗ trực ngạnh mà tới.
Câu 4: Huyệt tại sơn, nhi họa phúc tại thủy.
Huyệt ở núi mà họa phúc ở nước
Câu 5: Thủy tĩnh nhân tú, thủy trọc nhân mê
Thủy khứ nhân bần, thụy tụ nhân phú
Thủy tĩnh thì sinh người thanh tú, thủy ô trọc thì sinh người mê muội.
Thủy chảy siết (không tụ) thì sinh người nghèo khó. Thủy dồn tụ thì sinh người giàu có.
Câu 6: Thủy quý kỳ khuất khúc nhi chí
Ố kỳ tà phản nhi lưu
Thủy quý ở chỗ quanh co mà đến.
Ghét vi phản tà mà chảy qua.
Câu 7: Sơn vi phu thủy vi phụ, phu xướng phụ tùy
Sơn là chồng, thủy là vợ, chồng xướng xuất thì vợ phu theo.
Câu 8: Sơn vi hùng, thủy vi thư
Hệ sơn tắc thủy tòng
Sơn là hùng, thủy là thư, có sơn dẫn là có nước theo.
Câu 9: Sơn chủ nhân, thủy chủ tài
Sơn chủ người, thủy chủ tiền của.
Câu 10: Sơn yếu hồi, nhi thủy yếu nghịch
Sơn cầu hồi, mà thủy cầu nghịch
Câu 11: Sơn hậu vượng nhân đinh
Thủy triều tiến tài lộc
Sơn dầy, hậu thì vượng người.
Thủy triều lại thì thêm tài lộc.
Câu 12: Sơn súc súc nhi tối ái tú.
Thủy dương dương nhi triều cực thanh.
Sơn chót vót thì quý nhất là tú mỹ.
Thủy rào rạt triều về mà trong suốt.
Câu 13: Sơn vưu hậu nam nữ thọ xương
Thủy chừng ngưng tử tôn thanh tú
Sơn càng hậu thì trai gái càng thọ xương.
Thủy càng ngưng đọng thì con cháu càng thanh tú.
Câu 14: Sơn tha nga ác khí, bất cát
Thủy bộc lộc, khắp khốc, tối hung
Sơn lởm chởm có ác khí thì không cát
Thủy bộc chảy kêu réo (như khóc) thì rất hung.
Câu 15: Hữu sơn vô thủy, vi chi cô sơn
Hữu thủy vô sơn vị chi cô thủy
Có sơn mà không có thủy gọi là cô sơn
Có thủy mà không có sơn gọi là cô thủy.
Câu 16: Sơn cố thủy, thủy cố sơn; dung kết chi địa dã
Sơn nghênh thủy, thủy nghé sơn mới là có đất kết vậy.
MỘC TƯỚNG THỦ THÀNH
KIM TINH LẠC THỦY CÁCH
Đệ tam cách (3)
HỮU ĐỆ TAM CÁCH
Cổn cổn sơn hành đới thủy biên.
Tổ long cao trạc, tảo Khôi nguyên
Long cung giá bút đăng thiên ngoại
Hổ bạn trừng thanh, nguyệt chiếu tiền
Nhất địa, hà tri, tâm tối hảo
Tử tôn phú quý tất thiên nhiên.
CÁCH THỨ BA
Sơn hành lớp, thủy liền bên,
Tổ sơn cao vút, phát Khôi nguyên
Trong Long: Bút giá cao vòi vọi
Cạnh Hổ: Đầm trong trăng chiếu tiền,
Được một đất này ôi quá đủ,
Cháu con phú quý, lý đương nhiên.
CHƯƠNG IV
MINH ĐƯỜNG THỦY PHÁP
A. HƯỚNG DẪN PHẦN MINH ĐƯỜNG THỦY PHÁP
Nước tụ trước huyệt là Minh Đường. Một minh đường tốt phải có đủ điều kiện tốt chỉ dẫn ở chương này. Minh đường có thể chỉ có một và có thể có hai hay ba hay nhiều hơn nữa. Minh đường gần sát là nội đường, kế nữa xa hơn là trung đường, và xơ nữa là ngoại đường. Muốn biết giàu có hay nghèo khó ta hãy coi minh đường. Muốn biết thông minh hay ngu tối, ta cũng nên coi minh đường.
B. MINH ĐƯỜNG THỦY PHÁP
Câu 1: Hình như ấn chưởng, tất chủ mãi điền.
Thế nhược tu nang, định gia tích ngọc.
Minh đường hình như bàn tay để ngửa (trũng) chủ mua được nhiều ruộng đất.
Minh đường thế như cái túi chứa, định rằng nhà có ngọc ngà súc tích.
Câu 2: Tiên thủ minh đường
Hậu thủ điền ngọc
Trước phải có minh đường.
Sau mới có ruộng đất, vàng ngọc.
Câu 3: Hữu đường hữu huyệt
Vô đường vô huyệt.
Có minh đường mới có huyệt kết.
Không có minh đường thì không có huyệt kết.
Câu 4: Đường bất nhất đẳng nhi hữu đa dạng
Đường không phải chỉ có một dạng, mà có nhiều hình dáng.
Câu 5: Đệ nhất tối quý giả:
- Nội mật tiểu tiểu
- Hoặc phương, hoặc viên
- Hoặc dung nhân trác ngọa giai sử
Lưỡng thủy thiếp ư nội, nhi ngoại hữu đường dung vạn mã.
- Quý nhất là bên trong kính đáo, nho nhỏ.
- Hoặc vuông hoặc tròn.
- Hoặc vừa người nằm nghiêng đều khiến cho hai mạch thủy yên lặng ở trong, mà bên ngoài lại có minh đường rộng lớn chứa được ngàn vạn con ngựa
Câu 6: Đường hữu nội, hữu trung, hữu ngoại, vị chi tam đường.
Đường có nội đường, trung đường, ngoại đường, gọi là tam đường.
Câu 7: Tam đường giả, giai tích tụ phú quý tiền tài vô số
Cả ba đường này đều có nước tích tụ, thì có rất nhiều tiền của.
Câu 8: Nhất thốn thổ, nhất thốn kim, tứ thời sơn thủy, tứ thời trân.
Một tấc đất (nước) một tấc vàng, bốn mùa sơn thủy (có nước) lài loại minh đường bốn mùa trân quý.
Câu 9: Địa hữu minh đường như nhân hữu phúc, cổ tích thủy nhi tích huyết.
Đất có minh đường cũng như người có tâm phúc, cho nên chứa thủy là chứa huyết mạch.
Câu 10: Minh đường bình chính giả, tử tôn tuấn tú tài lương.
Minh đường tà khuynh giả, tử tôn du đãng, bần phạp.
Minh đường mà ngay ngắn thì con cháu hiền tài.
Minh đường mà nghiêng lệch thì con cháu du đãng nghèo.
Câu 11: Tích thủy vị chi tích ngọc, tán thủy tức tán tài.
Minh đường có chứa nước cũng như chứa ngọc, minh đường mà nước chảy tiêu tan cũng như tán tài.
Câu 12: Sở kỵ giả, thu vô thủy.
Sở úy giả, nội thế tà.
Điều đáng kỵ là mùa thu minh đường cạn nước.
Điều đáng sợ là nội thế minh đường nằm nghiêng (không kết).
Câu 13: Thủy thuận khứ, khí bất tụ
Nước chảy xuôi thuận đi (không chứa) thì khí không tụ (vì nước theo khí của núi).
Câu 14: Đại để phú quý, bần tiện, hệ ư minh đường, thử đặc luận minh đường phương yếu ư địa vị.
Đại để giàu sang nghèo hèn là quan hệ ở minh đường đây là đặc biệt bàn về minh đường đối với vị trí của đất.
Câu 15: Tây Bắc bản Kim, thủy tụ khí chung quán (tài liệu mờ)
Tây Bắc vốn hành Kim (quẻ Càn). Cố thủy tụ khí chung suốt, kín che chở chu đáo rồi, cho nên nói rằng Bắc thì không cần luận minh đường.
Lời bàn thêm: Thực ra thì nước chảy theo chiều Tây Bắc, Đông Nam nên huyệt quay về hướng Tây Bắc, đã thu được tất cả thủy từ cao xa về lòng rồi.
Câu 16: Tuy nhiên Đông Nam chân kỳ thủy tụ. Nhược thâm nội, thái quá giả, khả kỵ. Khoáng đại thuận lưu, khả kỵ.
Tuy nhiên phương Đông Nam thiệt có thủy tụ, nhưng nếu sâu quá cũng đáng kỵ, mà không khoáng rộng lớn, chảy xuôi cũng đáng kỵ.
Câu 17: Tả khuynh giả, sơ niên bất lợi.
Nghiêng về bên trái thì những năm đầu không lợi.
Câu 18: Cục mỹ, đường khuynh, thoái quan lạc chức
Cuộc đất đẹp mà đường nghiệp thì làm quan trước sau cũng bị thoái quan lạc chức.
Câu 19: Huyệt cát thủy khuynh tức quý nhi bần.
Huyệt cát mà nước nghiêng thì quý nhưng nghèo.
Câu 20: Đường cận tốc phát, đường viễn trì phát.
Đường gần huyệt thì phát sớm, đường xa huyệt thì phát chậm.
Câu 21: Đường thanh, thanh tú, đường trọc, trọc dâm.
Đường trong sinh người thanh tú, đường đục thì sinh người trọc dâm.
Câu 22: Tả tụ, trưởng nam tiến phát
Hữu tụ, thứ nam tiên hưng.
Đường tụ bên trái thì trai trưởng phát trước, tụ bên phải thì trai thứ phát trước.
Câu 23: Thử Minh Đường chi thể luận dã.
Đây là luận về đại thể minh đường.
THỦY KHẨU
Câu 24: Khai thủy khẩu định long lai:
1. Ất, Bính giao nhi xu Tuất
2. Tân, Nhâm hội nhi tụ Thìn
3. Đẩu Ngưu nạp Đinh Canh chi Khí,
4. Kim dương thu Quý Giáp chi linh.
Thấy thủy khẩu thì biết long lai:
1. Ất Bính giao nhau mà đi đến Tuất.
2. Tân Nhâm hội ngộ rồi tụ ở Thìn.
3. Đẩu Ngưu (Sửu) là nơi nạp khí của Đinh Canh.
4. Kim Dương (Mùi) là chỗ thu linh khí của Quý Giáp.
Cho ta biết là biết thủy khẩu thì biết long lai (long đến) như sau:
1. Long đến từ phía Nam, nếu thủy khẩu xuất ra ở phía Bắc (Tuất).
2. Long đến từ phía Bắc, nếu thủy khẩu xuất ra ở phía Nam (Thìn).
3. Long đến từ phía Tây, nếu thủy khẩu xuất ra ở phía Đông (Sửu).
4. Long đến từ phía Đông, nếu thủy khẩu xuất ra ở phía Tây (Mùi).
Và cũng cho ta biết:
1. Long từ phía Nam đến là Hỏa cuộc long.
2. Long từ phía Bắc đến là Thủy cuộc long.
3. Long từ phía Tây đến là Kim cuộc long.
4. Long từ phía Đông đến là Mộc cuộc long.
Và cũng cho ta biết:
1. Hỏa cuộc thì
a. Long từ Ất đi xuôi chiều
b. Hay từ Bính đi ngược chiều.
2. Thủy cuộc long thì:
a. Long từ Đinh đi xuôi chiều
b. Hay từ Nhâm đi ngược chiều.
3. Kim cuộc long thì:
a. Long từ Đinh đi xuôi chiều
b. Hay từ Canh đi ngược chiều
4. Mộc cuộc long thì:
a. Long từ Quý đi xuôi chiều.
b. Hay từ Giáp đi ngược chiều. Trên đây mới về Long của Thủy pháp, còn nếu nói cả Long lẫn Thủy của Thủy pháp thì sẽ xin trình bày ở Phụ lục 3. Tiếp theo ta hãy khai triển phần Thủy khẩu trong bài Thủy khẩu. 1. Địa hữu thủy khẩu, ngoại minh đường thủy khẩu phóng dã. Cuộc đất phải có thủy khẩu. Thủy khẩu là nơi nước phóng (từ nội cuộc) ra ngoài minh đường vậy. 2. Sở quý chi huyền khuất khúc, tế tiểu bất thông chu, quan tỏa ư ngoại. Điều đáng quý là nước chảy chữ chi, chữ huyền, quanh co khuất khúc, nhỏ bé, không đi lọt cái thuyền, đóng khóa ở ngoài (thủy khẩu). 3. Hoặc triển kỳ nhi khứ, hoặc toàn nhiễu nhi lưu. Hoặc như mở cờ mà đi, hoặc quanh quẩn mà chạy. 4. Sở kỵ giả, quảng trực xuất Điều đáng kỵ là (nước thủy khẩu) rộng mà chạy thẳng. 5. Nhược cầm hình, thú hình, du ngư, gia ngư, tẩm bút, quái thạch, thử đại, quý chi địa giả. Nếu có (then khóa ở thủy khẩu) hình con cầm (nhỏ), con thú (lớn), cá bơi, cá lội hoặc quái thạch tấm bút (bút chấm nước) đó là đất đại quý vậy. MÃ TỬ TRANH TIÊN (Đệ tứ cách 4) HỮU ĐỆ TỨ CÁCH Long hành uyển chuyển bút sinh biên Thử thị Thần đồng trạc thiếu niên Hổ xuất hổ mao, hình tự lập Mã khép mã tử, thế tranh tiên Vân đằng sơn ngoại Thần đông xuất. Nguyệt chiếu giang hồ, Ngọc nữ truyền. Nhược kiến đại giang hoàn nhiễu bảo Tất nhiên phụ tử kế Khôi nguyên. CÁCH THỨ 4 Long hành uyển chuyển, bút liền bên, Ất đất Thần đồng, đỗ thiếu niên. Hổ quát đuôi hùm, hình tự lập. Dắt con ngựa mẹ, dáng tranh tiên. Ngoài xa núi hiên, Thần đồng xuất, Trăng chiếu trong sòng, Ngọc nữ truyền Nếu được sông to vòng quắn lại Ất là Phụ Tử kế khôi nguyên CHƯƠNG V HUYỀN VŨ PHÁP A. HƯỚNG DẪN PHẦN HUYỀN VŨ PHÁP Nếu đằng trước có minh đường và án, diệu tinh thì đằng sau huyệt phải có huyền vũ. Huyền vũ là nơi mạch từ ở đó rồi rót vào huyệt. Huyền vũ cao, dày thì có nhiều khí mạch dự trữ, và con cháu người để được đất đó sẽ có nhiều sinh khí, sống lâu hơn. B. HUYỀN VŨ PHÁP Câu 1: Huyền vũ, âm thiên dã quý kỳ thủy đầu, bình chính phương viên. Huyền vũ là âm thiên vậy, quý ở chỗ cúi đầu, bằng ngay vuông tròn. Câu 2: Sở khai trướng, loan cung, hoặc ngoại bình kiến quỷ. Huyền Vũ (tốt) thì có khai trướng, vòng cung, hoặc ngoài bằng phẳng trông thấy quỷ. Câu 3: Yếu sử kỳ bản thân vi cao, vật sử ngưỡng ngọa, phong xuy. Cần khiến cho bản thân hơi cao, đừng để như nằm ngửa, bị gió thổi. Câu 4: Vật sử thủy phi, sơn khứ Đừng nên có thủy phi và sơn chảy đi. Câu 5: Phương xương viên hồ phú nhi khả thọ. Hình có hòm vuông, hồ tròn thì giàu có và thọ. Câu 6: Tôn nghiêm, tiêm bút, tú cao, quý nhi thả vinh Tôn nghiêm, có bút nhọn thanh tú và cao thì quý và vinh hiển. Câu 7: Sở kỵ giả, đê bạc phong xuy Điều đáng kỵ là (huyền vũ) bị thấp mỏng và bị gió thổi. Câu 8: Sở kỵ giả thô bạo lăng áp. Điều đáng kỵ nữa là thô bạo và lấn át huyệt. Câu 9: Thử Huyền Vũ chi chư dã Đó là chủ yếu về Huyền Vũ vậy. CÁT CẦM TINH HÌNH ĐỒ Đệ ngũ cách (5) HỮU ĐỆ NGŨ CÁCH Tố khởi tả kiên nhập hữu sa Long tòng thủy nhiễu tụ đường oa. Long quá Tây cung, tiên bái tướng Hổ quá Đông cung, thế thế khoa CÁCH THỨ NĂM Tổ sơn từ tả hữu liền sa, Thủy tụ, Mạch dừng, Huyệt kết oa. Long quá Tây cung, triều bái tướng Hổ qua Đông vị, nối muôn khoa CHƯƠNG VI CHU TƯỚC PHÁP A. HƯỚNG DẪN PHẦN CHU TƯỚC PHÁP Chu tước là các gò đống ở trước huyệt. B. CHU TƯỚC PHÁP Câu 1: Chu tước dương địa dã. Chu tước là dương địa vậy. Câu 2: Quý kỳ tường vũ triều nghinh, hoặc thanh thúy tam quang, hoặc miên cung nhất bão. Chu tước quý về chỗ nó múa lượn, triều đón huyệt hoặc tươi tốt sáng sủa, hoặc là vòng cung ôm lại. Câu 3: Yếu sử nội chi trừng thanh, tắc tử tôn thanh tú. Cần phải cho bên trong thanh nhã thì con cháu sẽ thanh tú. Câu 4: Song phong tịnh đối, chúng thủy triều dương, tam thai liệt tú, ngũ nhạc triều nghinh, tam quân xuất trận, vạn giáp bài tiền, thử quý cách dã. Chu tước mà có hai ngọn núi đối nhau, mọi dòng nước lại triều, có tam thai bày hàng thanh tú, có ngũ nhạc chầu lại, như ba quân xuất trận, như vạn giáp bày hàng ở trước, đó là cách quý vậy. Câu 5: Vật sử thủy chi thuận lưu, sơn chi tán loạn Đừng khiến cho thủy chảy thuận xuôi, cho sơn chạy tán loạn. Câu 6: Tối kỵ giả, tha nga ác khí Thậm sơ úy giả, nội u âm Đáng kỵ nhất là lởm chởm có ác khí, đáng sợ nhất là tù hãm, âm u. Câu 7: Thử Chu Tước chi mật dã. Đó là cơ mật của Chu tước vậy. NGƯU MIÊN CHI ĐỒ Đệ lục cách (6) HỮU ĐỆ LỤC CÁCH Thiền thiều phát tố khởi căn nguyên Uyển chuyển hồi hoàn mạch khúc huyền Hữu kiên đáo tả nhi chuyển hữu Bàn vu cục thế tự ngưu miên. Đường khai nội ngoại gia chân huyệt. Sơn chiếu quần tinh phúc vĩnh miên CÁCH THỨ SÁU Đùn đùn mạch tự Tổ sơn nguyên, Khuất khúc trông như nét chữ “Huyền”. Vai hữu chuyển tả, tả về hữu Hình như Trâu ngủ tại bình điền. Minh đường nội ngoại đều: Chân huyệt, Chiếu ứng quần tinh, phúc vạn niên. CHƯƠNG VII LONG HỔ PHÁP A. HƯỚNG DẪN PHẦN LONG HỔ PHÁP Long hổ là giải đất nhô ra ôm lấy huyệt - Giải đất bên trái gọi là Long hay Thanh Long. Giải đất bên phải gọi là Hổ hay Bạch Hổ. Tay Long ứng về con trưởng hay con trai, và tay Hổ ứng về con thứ hay con gái. Có thể chỉ có một Long và một Hổ và có thể có nhiều Long, Hổ. Long, Hổ có tốt có xấu, ảnh hưởng đến sự tốt xấu của con cháu. Thường thường huyệt trường xuất ra nội long và nội hổ. Long hổ có thể có một cặp và cũng có thể có nhiều cặp. Trên 3 tầng long hổ là quý. B. LONG HỔ PHÁP Câu 1: Phù địa hữu long hổ như nhân hữu thủ túc. Đất mà có long hổ như người ta có chân tay. Câu 2: Long Hổ vệ huyệt như thủ túc vệ thân Long Hổ bảo vệ cho huyệt như chân tay bảo vệ cho thân thể. Câu 3: Long bão hổ tối quý, hổ bão long vị toàn Long mà ôm lấy hổ thì rất quý, còn hổ mà ôm lấy long thì chưa được hoàn thành, vì ngành thứ lấn át ngành trưởng, con gái lấn át con trai. Câu 4: Cố viết: Long yếu trường, Hổ yếu đoản. Nên mới nói rằng long cần dài, hổ cần ngắn Câu 5: Long chủ sinh Nam, văn thần, triền nhiễu hồi đầu vi ái Hổ chủ sinh nữ, vũ chức, tôn cứ vi quý Long chủ sinh con trai, sinh văn quan, nếu quấn quít, quay đầu lại là đáng yêu. Hổ chủ sinh con gái, vũ tướng, nếu ngồi tôn nghiêm là quý. Câu 6: Hổ phản xuất, tắc nữ ưu, vũ phế. Long phản ta, tắc nam táng nhi văn suy. Hổ phản ra, con gái buồn lo, vũ chức bị phế bỏ. Long mà phản, thì trai bị ly tán, mà văn chức cũng suy. “Trường hợp này phải ly hương mới khá”. Câu 7: Long hổ hữu lực, huyệt thị quý Long hổ vô tình huyệt thị tiện Long hổ có lực là huyệt quý. Long hổ vô tình là huyệt tiện. Câu 8: Long sinh chi, vị chi long sinh tử tôn Hổ sinh dực, vị chi hổ hữu nội ngoại Long sinh chi nhánh, gọi là long sinh tử tôn Hổ sinh cánh, gọi là hổ có nội ngoại. Câu 9: Long Hổ dữ Thủy nghịch thiên hạ chân vô địch. Long Hổ dữ thủy thuận, gia trung tài dụng tận. Long Hổ cùng thủy nghịch, thiên hạ thật vô địch. Long Hổ cùng thủy thuận, trong nhà tiền dùng hết. Câu 10: Sở kỵ giả, Long phản bội, Hổ ngang đầu Điều đáng kỵ là long quay lưng lại và hổ vươn đầu lên, “sinh nghịch nhân” Câu 11: Tả lai nhi hữu quá cung vệ huyệt, vị chi Hổ nghịch. Hữu lai nhi tả quá cung vệ huyệt, vị chi Long nghịch Hổ từ phải đến, quá cung sang bên hữu là hổ nghịch. Long từ trái đến, quá cung sang bên tả là long nghịch. Câu 12: Trùng long, trùng hổ phát trùng đại. Đơn long, đơn hổ phát đơn đại. Nhiều long, nhiều hổ phát nhiều đời. Đơn long, đơn hổ phát một đời. Câu 13: Cố viết: Luận địa bất quá tả Thanh long, hữu Bạch hổ dã Cho nên nói rằng: Luật đất thì bất quá tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ vậy. QUÝ NHÂN LẬP MÃ Đệ thất cách (7) HỮU ĐỆ THẤT CÁCH Hậu sơn điệp điệp xuất trùng sơn Long hổ thiều thiều thế nhược bàn. Thủy thanh nghi đắc thanh giang chiếu Kim bạch tu cầu gián thủy loan Nam tử tất sinh đa thịnh vượng Nữ nhi định thị xuất bình an Chân huyệt ký đắc truyền thiên thế Vạn đại thời sư yếu sát quan. CÁCH THỨ 7 Sau đầu khởi phục điệp trùng sơn, Long, Hổ lần lần thế uốn tròn Thủy thanh bởi tại thanh giang chiếu, Kim bạch nên cầu gián thủy loan. Nam tử nếu sinh, là thịnh vượng, Nữ nhân hễ xuất, ắt bình an. Huyệt sẵn an bài dành hậu thế, Thời sư vạn đại đến chiêm quan. CHƯƠNG VIII QUAN QUỶ LUẬN A. HƯỚNG DẪN PHẦN QUAN QUỶ LUẬN Trước huyệt mà long hổ thôi ra gọi là tiền, quan. Sau huyệt mà đất cúi xuống gọi là hậu quỷ. Chỗ gần gọi là quan hay quỷ và chỗ xa gọi là Triều. Cụ Tả Ao nói: “Án dày muốn thấp triều dày lại cao”. Vậy án hay quan quý ở gần phải thấp và càng xa phải càng cao mới đúng phép. Cũng có thể gọi gò đống trước huyệt là án và gò đống sau huyệt là quỷ. B. QUAN QUỶ LUẬN Câu 1: Huyệt tiền long hổ thôi xuất vị chi tiền quan. Huyệt hậu thùy đầu vị chi hậu quỷ. Trước huyệt mà long hổ thôi ra, gọi là tiền quan. Sau huyệt mà cúi đầu xuống gọi là hậu quỷ. Câu 2: Quan Quỷ hữu cát hung Quan Quỷ có cát, có hung a. Tiền quan cát: - Liên châu quan (liên tiếp như chuỗi châu) - Đới khố quan (đeo cái khố) - Tam thai quan (ba ngọn núi) - Ngũ nhạc quan (năm ngọn núi) - Tiêm xuất quan (nhọn ra) Quan như vậy là quan cát. b. Tiền quan hung: - Tha nga quan (lởm chởm) - Hân quần quan (vén quần) - Vũ tụ quan (tung vạt áo) - Tà phi quan (bay chéo) - Khứ thủ quan (mất đầu) Quan như vậy là hung c. Quỷ diệc hữu cát hữu hung Quỷ cũng có cát có hung. Quỷ hung như: - Đới đổ bác quỷ. - Đới sát quỷ. - Tà phi quỷ (Đều là hung) Câu 3: Thuận thế dĩ quan vi quý Hồi hoành dĩ quỷ vi tiên Thuận thế thì lấy quan làm quý. Hồi hoành thì lấy quỷ làm trước. Câu 4: Đại địa hữu quan hữu quỷ, kỳ địa tối mỹ. Đất lớn có quan có quỷ, là đất rất đẹp vậy. Câu 5: Quan xuất tiền triều cao thiên. Quỷ thác hậu vi quan tối quý Quan xuất đằng trước là được cao thăng Quỷ đỡ đằng sau, làm quan rất quý. Câu 6: Huyệt tuy xưng, quan quỷ vưu xưng Huyệt vị minh, quan quỷ ích minh Huyệt đáng khen có quan quỷ càng đáng khen hơn. Huyệt chưa minh bạch có quan quỷ nhìn càng thêm rõ. Câu 7: Thử quan quỷ chi luận dã Đây là luận về quan quỷ vậy. QUỶ SƠN VƯƠNG TỰ PHÁT MỘC NHÂN HÌNH CẢI TỬ HOÀN SINH CÁCH Đệ bát cách (8) HỮU ĐỆ BÁT CÁCH Nhất cá Quỷ tinh phát bản nhân Nhị cá Quỷ tinh tác tỉnh nguyên Tam cá Quỷ tinh Hàn lâm vị Đề hình Án phủ Vận ty liên Tứ cá Quỷ thần nhập Triều sĩ Nhật lệnh quỹ mật phụ Vương thiên Lục cá Quỷ tinh vi Chinh bái Hợp môn ân quyến quế chi sinh. CÁCH THỨ 8 1. Quỷ phát bản thân 2. Quỷ phát Tỉnh nguyên. 3. Quỷ phát Hàn lâm, Đề hình, Án phủ, Vận ty Quan 4. Quỷ phát thi đỗ, được nhập triều đình 5. Quỷ phát Nhật lệnh quỹ mật giúp vua. 6. Quỷ được đăng đàn bái tướng Nếu Quỷ hợp ở cửa, toàn gia được đỗ đạt cao sang. CHƯƠNG IX DIỆU TINH PHÁP A. HƯỚNG DẪN PHẦN DIỆU TINH PHÁP Những gò đống nhỏ xuất bên ngoài hay trên tay Long tay Hổ gọi là Diệu Tinh. Diệu Tinh, Sa, Quan quỷ cần phải bao bọc, bảo vệ, vòng ôm lấy huyệt thì mới tốt. B. DIỆU TINH PHÁP Câu 1: Diệu giả, tiền xuất giả - Hữu thuận Diệu, nghịch Diệu. Diệu tinh xuất ở trước “ngoài long hổ”. Có thuận diệu và nghịch diệu. Câu 2: Phàm kết huyệt ư nội, long vệ ư ngoại, ngoại hữu diệu xuất dã. Phàm kết huyệt ở trong, long vệ ở ngoài, ngoài nữa có diệu xuất vậy. Câu 3: Diệu hữu đa thể: a. Hữu loan cung diệu b. Hữu lư tiên diệu c. Hữu triêm xuất diệu d. Hữu trường giang diệu Diệu tinh có nhiều thể: a. Có diệu ôm vòng cung. b. Có diệu như chiếc roi. c. Có tiêm xuất diệu d. Có diệu trường giang. Câu 4: Đắc chi nghi giai, trường, hữu lực vi quý Diệu cần được đẹp, dài, có lực là quý. Câu 5: Thử hảo cách tại diệu tinh dã Đây là cách tốt của diệu tinh vậy. THU NGUYỆT ẤN SIÊU ĐỒ Đệ cửu cách (9) HỮU ĐỆ CỬU CÁCH Long hình loan bão tử vi viên Khí tụ hình tàng tại thủy uyên Sơn khởi Kiền, Khôn nghi Cấn, Tốn Thủy trùng bất tiết huyệt thiên nhiên Long khởi loan hồi nhất bao quả Thủy tụ trùng thanh sơn nhất cá Nguyệt chiếu tinh thần thân bão hướng. Thử địa khoa danh đa hiển bá. CÁCH THỨ 9 Mạch vòng ôm khắp bốn phía của Viên cục. Khí tụ, huyệt ẩn trong vực nước. Sơn khởi ở các cung Kiền, Khôn, Chấn, Tốn. Thủy lắng trong cả bốn mùa, huyệt thiên nhiên Long sơn khởi lên, vòng ôm một lần kín khắp Nước tụ trong xanh núi một hòn. Long lanh ánh trăng chiếu lại có tính phong bão hướng. Đất này phát khoa danh nhiều người hiển đạt. CHƯƠNG X THÁC LẠC PHÁP A. HƯỚNG DẪN PHẦN THÁC LẠC PHÁP Thác lạc là những gò đống ở sau huyệt hay sau long khi long hay huyệt đổi chiều. Nếu là đổi theo chiều ngang gọi là hoành long mà có gò đống đỡ sau thì gọi là Thác. Thác là gò từ thân long mọc ra đỡ sau long, còn Lạc là gò đống ở xa chạy đến đỡ sau thân long hay sau huyệt. Đất Hồi Long bắt buộc phải có Lạc và Hoành Long phải có Thác mới tốt. B. THÁC LẠC PHÁP Câu 1: Phàm địa hữu chân, nghịch, đa kết Phàm đất có chân nghịch thì phần nhiều hay kết. Câu 2: Hồi long, Hoành long, hữu Thác Sơn, Lạc Sơn dã. Hồi long, hoành long thì sau lưng thấp mỏng nên hồi, hoành phải có Thác Sơn (cho hồi long) và Lạc Sơn (cho hoành long). Câu 3: Địa hữu thác lạc đắc nhân trác việt chi tài, vưu nghiệm dã. Đất có Thác, Lạc thì sinh người có tài trác việt, rất ứng nghiệm vậy. HỒ MIÊU CÁCH Đệ thập đồ (10 HỮU ĐỆ THẬP CÁCH Chú vận: Mạch khởi hữu chí tả nhập cục, Hổ tiên đáo đường, Long hậu tiếp tục, nội ngoại loan hoàn, tả hữu khởi, phục. Thành thượng tinh phong giang loan bàn nhiễu; thủy hiện sơn trung, thử vi quý cách, nhiên đắc kỳ huyệt, phát phúc tậm giai, nãi thành quý cục. CÁCH THỨ 10 Lời chú: Mạch bên hữu tới bên tả nhập cục, trước tiên là Hổ sa tới minh đường, rồi sau lại đến Long sa tiếp tục. Trong ngoài ôm cong về, tả hữu có tinh phong cao đại khởi phục. Sông to uốn quanh, thủy hiện trong núi, là quý cục. Để huyệt tại long này sẽ phát phúc lâu dài. CHƯƠNG XI ÁN SƠN PHÁP A. HƯỚNG DẪN PHẦN ÁN SƠN PHÁP Án nghĩa là bàn giấy. Án ở trước huyệt như bàn giấy trước mặt người ngồi. Án còn có nghĩa là khách nếu gọi huyệt là chủ. Chủ khách phải tương kính nhau thì mới tốt. Án không nên quá cao hoặc quá thấp. Án nghiêm chỉnh tốt hơn án lệch lạc. Án cũng cho ta biết là huyệt đó phát mau hay lâu mới phát. Thường huyệt gần án phát mau hơn là huyệt có án tận đằng xa. B. ÁN SƠN PHÁP Câu 1: Địa hữu án như quân hữu triều Đất có án như vua có triều Câu 2: Huyệt vi chủ, án vi khách, hữu chủ hữu khách do hữu quân, hữu thần. Huyệt là chủ, án là khách, có chủ có khách cũng như có vua có tôi. Câu 3: Dục cầu kỳ chân hảo, viễn án bất như cận án Muốn cầu cho thật tốt, thì án xa không bằng án gần. Câu 4: Dục bất doanh háo, viễn triều bất như cận triều Muốn không doanh háo, triều xa không bằng triều gần. Câu 5: Chân giả do nghi, dĩ án vi cứ Thật giả (huyệt) còn ngờ thì lấy án làm căn cứ Câu 6: Hoặc viễn sơn hồi đầu vi khách ám Hoặc tự tuyệt thôi thân vi nội ám. Hoặc núi ở xa quay đầu về làm khách án. Hoặc ở huyệt ra làm nội án. Câu 7: Viễn án phát trì, cận án phát tốc, thử án chi. Án xa phát chậm, án gần phát mau đó là phương pháp của án. Nhược long hổ cận vệ chi chủ khách tương nghịch nãi thị giả xứ cao tề mi, đê ứng tâm đắc chi thị dã. Nếu được long hổ cộng vệ và huyệt chủ, án khách tương nghinh, nơi đó ta mượn chỗ cao bằng mi mắt, thấy ngang rốn là án được rồi đấy. HỔ NHẬP ĐÔNG LÂM CÁCH Thập nhất cách (11) HỮU THẬP NHẤT CÁCH Tố khởi Long kiên nhập hữu kiên Đáo đầu nhất tiết trực lai thiên Tu cầu hổ bạn bao quá huyệt Phú quý công danh thế thế truyền CÁCH THỨ 11 Tổ khởi từ vai long nhập vào vai hữu long, vào đầu một tiết rồi đi thẳng vào ngay cửa trời. Bên hổ nên bao quá huyệt. Phú quý công danh đời đời được truyền tụng. CHƯƠNG XII LUẬN VỀ PHƯƠNG VỊ QUÝ TIỆN LUẬN VÀ CÁC CỤC PHÁP A. HƯỚNG DẪN CHƯƠNG XII VÀ XIII Từ chương I đến chương XI nói về chi tiết căn bản để học khoa Địa lý. Từ chương XII này trở đi nói về tổng hợp các căn bản đó và thêm cả tổng hợp về lý khí nữa. Nói cách khác 11 chương trên nói nhiều về căn bản và về loan đầu và từ chương 12 này trở đi nói nhiều về tổng hợp và lý khí. B. LUẬN VỀ PHƯƠNG VỊ QUÝ TIỆN LUẬN VÀ CÁC CỤC PHÁP 1. Tam thai là Hợi, Chấn, Canh. 2. Lục tú là Cấn, Bình, Tốn, Tân, Đoài, Đinh đều là âm long, đều là quý nếu tầm được long đó. 3. Tý, Ngọ, Dần, Thân là Dương long. 4. Thìn, Tuất, Sửu, Mùi là Tứ Mộ Long 5. Càn lão dương, Khôn lão âm đó là tiện cách. 6. Giáp, Ất, Nhâm, Quý là Dương Long. 7. Tốn Tỵ (Âm) Thìn Tuất (dương) Sửu Mùi (âm) đều là tiện cách. 8. Bính Tý, Đinh Sửu, Mậu Dần, Kỷ Mão, Canh Thìn, Tân Tỵ, Nhâm Ngọ, Quý Mùi, Giáp Thân, Ất Dậu, Bính Tuất, Đinh Hợi: đó là Đại vượng tướng. 9. Canh Tý, Tân Sửu, Nhâm Dần, Quý Mão, Giáp Thìn, Ất Tỵ, Bính Ngọ, Đinh Mùi, Mậu Thân, Kỷ Dậu, Canh Tuất, Tân Hợi là Bàng vượng. 10. Giáp Tý, Ất Sửu, Bính Dần, Đinh Mão, Mậu Thìn, Kỷ Tỵ, Canh Ngọ, Tân Mùi, Nhâm Thân, Quý Dậu, Giáp Tuất, Ất Hợi: đó là chính Cô Hư. 11. Nhâm Tý, Quý Sửu, Giáp Dần, Ất Mão, Bính Thìn, Đinh Tỵ, Mậu Ngọ, Kỷ Mùi, Canh Thân, Tân Dậu, Nhâm Tuất, Quý Hợi: Đó là Bàng Cô Hư. 12. Mậu Tý, Kỷ Sửu, Canh Dần, Tân Mão, Nhâm Thìn, Quý Tỵ, Giáp Ngọ, Ất Mùi, Bính Thân, Đinh Dậu: Đó là Không Vong, Quan Sát. 13. Điểm huyệt nên thừa Vượng Tướng mà bỏ Cô Hư, tránh Không Vong. Thì sẽ tự nhiên phát phúc, có thể đạt được thần công. LONG QUẢI TÂY HOÀI Thập nhị cách (12) HỮU THẬP NHỊ CÁCH Tố khởi hữu kiên nhập long kiên Đáo đầu nhất tiết huyệt lai tiền Tu cầu tả bạn bao quá cục Vạn đại khoa danh thế thế truyền. CÁCH THỨ 12 Khởi tố ở phía hữu nhập vào vai long Vào đầu chỉ một tiết là tới ngay huyệt Nên cầu được tả sao bao quá cục đất. Sẽ phát khoa danh được đời đời truyền tụng. CHƯƠNG XIII TỔNG LUẬN CÁC CỤC PHÁP A. HƯỚNG DẪN TỔNG LUẬN CÁC CỤC PHÁP Đây là nói các cách thế của đất kết B. TỔNG LUẬN CÁC CỤC PHÁP - Phú Quý Thọ Khang Ninh đều là do quý địa chứ không phải là do lời nói suông. - Bần tiện nghèo khó cùng yểu, phần nhiều đều là do thiên cơ, há chẳng biết ru. Câu 1: Thủy triều cửu khúc, phú quý vạn chung. Sơn ứng tứ duy, vinh thăng chín trật. Thủy triều chín khúc, minh đường nước chan chứa: chủ giàu Tứ duy (Càn Khôn Cấn Tốn) có núi cao chót vót: chủ sang. Câu 2: Có thiên trụ cao, thọ như Bành Tổ Có thiên tâm phá thì chết non như Nhan Hồi. Thiên trụ là Càn, nếu huyệt phì và cao hậu ở Càn phương, cao ứng chủ thọ. Thiên tâm hậu đầu, kỵ nước chảy đi, bị chết non. Câu 3: Cấn thấy Bính: Giàu và sang Đoài thấy Đinh: Thọ và vinh Cấn chủ phú. Nếu Cấn sơn nhập huyệt, Bính thủy triều mà Tốn phương có sơn ứng là tốt. Đoài là tú long, nếu Đoài long nhập huyệt, có Đinh thủy triều mà Bính phương có sơn ứng là tốt. Câu 4: Chấn, Canh phấn phát về võ, nắm quyền hành trọng yếu tại Hợi Tốn. Canh Chấn phấn phát về võ, chính phương Nam tọa Khảm hướng Ly. - Hợi long Bính ứng, Tốn phương có núi cao - Tốn long, Hợi (thủy) ứng, Chấn Canh phương, có cờ trống lạ, Khảm long, Ly hướng, Chấn Canh ứng, là đất kết văn trước, võ sau, do đường khoa mục mà nắm chính quyền. Các phương Cấn, Tốn có tinh phong khởi đột, chủ làm võ tướng, cấp thống lãnh (Tư lênh). Câu 5: Thiên thị kiến Canh, trước phát văn sau phát võ. Bính thấy Tân, trước phát võ sau phát văn. - Thiên thị là Cấn - Cấn long Canh thủy ứng: Cấn chủ văn, Canh chủ võ cho nên trước phát văn sau phát võ. Bính long, Tân (thủy) ứng, Bính chủ võ chức và Tân chủ văn chương. Cho nên trước phát võ sau phát văn. Câu 6: Thiên Hoàng (Hợi) nhập Thiên thị (Cấn) quý khôn tả. Thái Ất (Tân) gặp Thiên Ất (Tốn) tiếng lừng vô địch. Thiên Hoàng là Hợi - Nếu long mạch khởi từ Hợi, chuyển sang Cấn mà tứ chính (Tý, Ngọ, Mão, Dậu) có cao phong ứng chủ con cháu giòng giống giàu sang thịnh vượng. Thái Ất là Tân - nếu Tân sơn lai Tốn thủy hoặc Tốn sơn lai Tân thủy ứng - chủ trúng khoa danh, thiên hạ vô địch vậy. Câu 7: Tốn Tấn đặc đạt: chu tủ (áo đỏ, tía) khắp triều Chấn Canh tú lệ: Giáp, Bính đầy nhà Câu 8: Tam cát lục tú long kết cuộc Tốn Tân có cao phong đẹp ứng về, hoặc bút vút từng mây: chủ về khôi khoa. - Phương Chấn, Canh có cờ trống. Hoặc ô núi cao tú lệ ứng về: chủ phát võ tướng. Câu 9: - Nhật mã kiến Thiên mã: danh chiếm Trạng Nguyên - Vị ngư kiến đại ngư: quan cư nhất phẩm. Nhật mã là nam phương, nếu có yên ngựa (Thiên mã) nổi cao lên, đứng tôn lập cho huyệt mà huyệt ngồi tôn nghiêm có tú khí thì phát Trạng Nguyên. Cụ Tả Ao nói: “Muốn cho con cháu Tam Khôi Phương Nam có bút, phương đoài có nghiên” Nghiên là “đại ngu” vậy, nếu phương Đoài có nghiên và phương Nam có bút lập nữa thì đỗ tam khôi (3 lần thì Hương, Hội và Đình đều đỗ đầu). Câu 10: Tên chiếm Khôi Nguyên chủ tam dương cao vọt - Chỗ ngồi lăng miếu - chỉ vì tư thế quân bình. Tân là Kim Long, gặp Bính, Ngọ, Đinh là tam dương Kim và Hỏa thành khí nên đỗ đầu thiên hạ. Tý, Ngọ, Mão, Dậu là 4 thế - huyệt ngồi đoan chính, 4 phương quân bình – con cháu phát khanh tướng. Câu 11: Hợi, Tốn tiếng là vua tôi Chấn, Canh như là vợ chồng Gặp Đinh, Giáp bảng thì tuổi trẻ có thanh danh gặp Đinh, Quý ứng chủ tuổi thọ thêm giàu có. Ngọ long, Đinh thủy lai triều, thiếu niên đỗ đầu. Đinh long mà Quý phương có sơn ứng - chủ giàu thọ. Câu 12: Càn, Đinh thì thọ, không nên tương kiến. Chấn, Hợi chủ quý chỉ muốn gặp nhau. - Càn (kim) Đinh (hỏa): Nếu Càn long gặp Đinh phương nên mỏng, thấp. Đinh long gặp Càn phương cũng nên mỏng, thấp. - Chấn long gặp Hợi thủy, hoặc Hợi long gặp Chấn thủy: tất chủ quý hiền vậy. Câu 13: Đất có tam kỳ: Vàng ngọc dùng xa xỉ Thổ có 4 thứ: tiền của thóc lúa không dùng hết - Phàm huyệt tốt - Hợi, Chấn, Canh (tam kỳ) có ứng thì giàu lớn – Phương Cấn Bính cũng vậy. - Phàm thổ hình, nhiều huyệt kết - Bốn thế có núi cao, quân bình chủ cự phú – cho nên mới nói như vậy. Câu 14: Một nam bao ba nữ, sở thuận về đâu thời theo đấy - Một nữ gặp ba nam, ở đâu thời lấy đó. Khôn, Ly, Đoài là nữ - hoặc nga mi hoặc bán nguyệt, hoặc như gương, như hốt, hoặc như liên châu (chuỗi châu) như đàn tỳ bà (thuộc về đồ dùng của đàn bà). Dậu long nhập huyệt, mà Khảm, Cấn, Chấn ba phương có tứ ứng thì trước phát nữ, sau phát nam. Chấn là trưởng nam Khảm là trung nam Cấn là thiếu nam Tốn là trưởng nữ Ly là trung nữ Đoài là thiếu nữ Vị nào ứng thì vị đó phát. Như là Cấn long, thứ đến Khảm Đoài cũng thế. Câu 15: - Dậu, Tốn phát con gái thông minh - Chấn canh phát con trai uy vũ. Câu 16: Làm quan ở ngũ phủ, do ở nhị thổ, nhị kim - Chức giữ ở lục bộ do ở khí tàng bát tướng nhị Kim là Càn Đoài, nhị Thổ là Khôn Cấn ứng về. Câu 17: Kho tàng thấy ở Cấn, Bính, con trai giàu địch quốc - Nga mi thấy ở Tý Ngọ, con gái đẹp khuynh thành. Câu 18: Càn nạp Giáp, Khôn nạp Ất đoán trước đắc thời. Tý ưa Ngọ, Thìn ưa Thân, bèn biết đắc thế - Càn long nạp Giáp thủy – Khôn long nạp Ất thủy. Tý long Ngọ hướng phát như lôi – Thìn long Thân hướng cũng như vậy. Đều là dương long, dương thủy sẽ chỉ phát một thời. Câu 19: Ngũ khí triều nguyên, cửa nhiều xe ngựa - Tứ Kim tú bão, nhà rực trâm anh Mộc ở Đông, Kim ở Tây, Hỏa ở Nam, Thủy ở Bắc, Thổ ở giữa làm huyện: Con cháu nhiều xe ngựa. - Tú Kim khởi ứng bốn phương - huyệt ở giữa: trâm anh gia truyền vậy. Câu 20: Thế tuy đại, huyệt bất cầu đại, chí ái nội tâm niêm khí. - Huyệt tuy tiểu, phúc phát bất thiểu, chân do nghịch thủy. Thế tuy lớn, huyệt không cần lớn, chỉ ưa nội tâm đĩnh khí. Huyệt tuy nhỏ, phát phúc không nhỏ, chính vì có nước nghịch lại. Luận câu 20: Từ mười dặm long mạch chạy lại, kết huyệt chẳng qua chỉ vừa chiếc chiếu, điều đáng ưa là nội đường nhỏ, vừa một người nằm nghiêng - trời mưa chứa nước đọng ở trong, cho nên nói là không cần đất rộng vậy. Huyệt tuy nhỏ bé, nhưng kho mạch gồm thu cả lại có cách nghịch hướng, thu tất cả nước từ đầu nguồn lại, con cháu giàu sẽ mua hết cả ruộng của thế gian. “Thụ tận nguyên đầu thủy Tử tôn mãi tận thế gian điền” Cho nên nói là phát phúc không nhỏ vậy. Câu 21: Mộc sinh văn sĩ, thổ vượng điền ngưu. - Đa kim đa ngọc, thủy sản anh hùng. Hình mộc phát văn sĩ, hình thổ vượng ruộng, trâu Kim nhiều vàng ngọc, thủy sản anh hùng. Luận câu 21: a. Mộc tính tĩnh xứ, khởi tiết tiết sinh văn chương chi sĩ b. Thổ tính trọc phì, mãn tiến điền ngưu chi phú c. Đa Kim tích ngọc, khai khẩu dĩ đấu lượng kim. d. Thủy kiến Kim, Thổ kiến Thủy đa xuất anh hùng. Có nghĩa là: Mộc tính yên lặng, nếu có đốt đốt mọc lên, gồ lên kết huyệt, táng vào sẽ sinh ra những bậc văn chương thi sĩ. Thổ tinh trọc phì, huyệt kết ứng sinh người giàu có, nhiều ruộng trâu. Hình Kim chứa nhiều ngọc, nếu huyệt Kim khai khẩu mà để được đất vào đó, thì giàu có thể lấy đấu đong vàng. Câu 22: Tam thai tiền, Tam thai hậu, Tể tướng côn khanh Thất diệu Đông, thất diệu Tây, Trạng Nguyên Phụ Bật. Tam thai trước, tam thai sau, sẽ phát tể tướng công khanh. Thất diệu phía Đông, thất diệu phía Tây, Trạng Nguyên Phụ Bật. Câu 23: Hình giải đệm, mở chiếu, đất đó rất quý. - Có tiền quan hậu quỷ, đất đó rất tốt. Câu 24: Phát phúc lâu dài, chẳc hẳn nước quanh huyền vũ Làm quan phú hậu, tất nhiên nước lượn thanh long Luận câu 24: Kiểu đât hồi long cố tổ, nước tiền đường chảy quanh về huyền vũ, mà đi, thì phát phúc không có dứt. Long ưa nghịch chiều, nếu nước chảy xuôi mà long đi ngược lên thì con cháu là quan mà giàu vậy. Câu 25: Cầm hình văn quan, yếu chi hình thế nhi luận. - Thú hình vũ sĩ, vưu đương tường mạch lạc nhi suy. Cầm hình phát văn quan, cần biết hình thế mà bàn. Thú hình phát vũ sĩ, nên tường mạch lạc mà suy. Câu 26: Đại thể xuất văn chương, do hồ thủy khẩu sinh quái thạch. - Thế thế liên khoa mục, tại hồ long thượng khởi tinh phong Đời đời xuất phát văn chương, do ở thủy khẩu sinh quái thạch Đời đời liền có khoa mục, do ở thân long khởi tinh phong. Luận câu 26: Kết tại Cấn, Hợi long, nhập Tốn, Tân, kỳ huyệt quỷ khí, hựu quái thạch trấn thủy khẩu, tầm thủy, trướng thủy, lạc như phù, tử tôn phú quý dã. Kết ở Cấn, Hợi long, nhập Tốn, Tân huyệt dã quý khí lại có quái thạch, trấn ở thủy khẩu, rút nước lên cạn, nổi quái thạch, nên con cháu giàu sang vậy. Câu 27: Thế thế liên khoa mục, kiến tú mạch kết cục, Long thân thượng tiết tiết sinh phong, như liên châu, đại đại tử tôn văn chương dã. Đời đời liền phát khoa mục, huyệt đã có mạch tốt kết cục. Trên minh long lại có đốt đốt cao lên như liên châu, nên đời đời con cháu phát văn chương vậy. Câu 28: Bạch ốc xuất công khanh, do hồ hồi long cố tổ. - Điền phu chí tể tướng, do hồ nghịch thủy nhập hoài. Bạch ốc xuất công khanh do ư hồi long đoái tổ. Điền phu làm đến tể tướng do ư nghịch thủy vào lòng. Luận câu 28: Tổ như phụ viễn hành, hồi long như tử, cửu vọng kiến nhi tự khoái, cố viết hồi long chi lực bạc năng linh bạch ốc chí công khanh Tổ như là cha đi xa, hồi long như là con trông lâu được nhìn thấy mà vui mừng, cho nên nói là sức hồi long tuy bạc nhược mà có thể khiến cho bạch ốc làm tới công khanh. - Huyệt tuy tại sơn, nhưng họa phúc tại thủy, thủy nghịch cấp phát, nhập hoài càng nhanh, cố viết sử điền dã chi nhân vi quan chi tể tướng. Huyệt tuy ở sơn họa phúc ở thủy. Nước nghịch chảy siết vào lòng càng chóng phát nên mới nói là được đất đó, dù là người điền dã cũng làm quan tới tể tướng vậy. Câu 29: Thổ nhập Thổ tử tôn đa hào phú Mộc nhập Mộc tử tôn đa khoa mục Thổ vào thổ con cháu nhiều hào phú. Mộc vào Mộc con cháu nhiều khoa mục. Luận câu 29: Cấn thuộc Thổ chủ phú, Thổ vượng điền ngưu Cấn long nhập thổ tinh, tác huyệt chi phú quý dã. Cấn thuộc thổ chủ về giàu, Thổ thì vượng về ruộng trâu. Cấn long vào Thổ tinh làm huyệt chủ về giàu sang vậy. Hợi thuộc mộc vi mộc thế, Hợi nhập cục tác mộc huyệt, đa văn sĩ dã. Hợi thuộc mộc làm mộc thế, Hợi nhập cục làm mộc huyệt, đấy là phát nhiều văn sĩ vậy. Hựu nhất thế long hành khởi tổ, đại thổ tinh chi thổ hữu huyệt, tứ hành như thử chi loại. Lại một thế cách nữa, long mạch đi khởi tổ từ đại thổ tinh đến thổ có huyệt. Bốn hành khác đều giống như thế. Câu 30: Nhất sơn nhất án túc dĩ tự vinh Nhất huyệt nhất đường túc dĩ trí phú. Một sơn, một án đủ sức tự vinh Một huyệt một đường, đủ sức làm giàu. Luận câu 30: a. Chung ứng nhất huyệt thanh kỳ nhất án, tuy vô long, hổ diệc vinh hoa. Chung ứng vào một huyệt, thanh kỳ ở một án, tuy không có long, hổ vẫn vinh hoa. b. Thổ tinh kết huyệt hướng đường, trữ thủy diệc trí phú dã Thổ tinh kết huyệt hướng đường chứa nước cũng có thể làm giầu vậy. Câu 31: Lư chiên trúng dự ngao đầu, cáo trục đa sinh phò mã Hình như lư chiên, đậu trúng ngao đầu, cáo trục sinh nhiều phò mã. Luận câu 31: a. Huyệt kết hồi long, tiền diện sơn như hoa cái, hậu huyệt như lư chiên, phát trạng nguyên. Huyệt kết hồi long, trước mặt có núi, hình như hoa cái (lọng hoa), ở sau huyệt, hình như lư chiên (rơi ngựa) phát trạng nguyên vậy. b. Phàm huyệt kết xứ, Nam phương Bính, Ngọ, Đinh, sơn hình như cáo trục đẳng lập, nam hôn công chúa dã. Phàm chỗ huyệt kết, ở Nam phương (Bính, Ngọ, Đinh) có núi hình như cáo trục, đứng chầu, con trai lấy được công chúa vậy. Câu 32: Sơn thôi thoái vận, tuần tiết nhi phát nhi tôn. Thủy khán nguyên đầu, kiến phương nhi tri chức nghiệp. Núi suy chuyển xuống theo đốt tiết mà phát con cháu. Nước xem từ đầu nguồn mà biết chức nghiệp. Luận câu 32: a. Sơn lai tự đầu giáng khởi, mỗi nhất tiết phát nhất đại, đốn khởi nhi suy. Núi đến từ đầu trở xuống, mỗi một đốt tiết phát một đời, theo chỗ thấp chỗ cao mà suy luận. b. Phàm thủy chi lai trường khê từ chữ giai hữu thăng, tự phát – Hà tự nhi luân giả như Tý phát nguyên thủy chủ thương mại, dĩ thử luận tha, khả loại suy. Phàm nước trường khê tới, quan hệ tự chỗ phát nguyên. Xem từ chữ gì mà định luận. Giá như nước phát nguyên từ chữ Tý thì chủ về buôn bán, cứ theo pháp đó mà suy luận rộng ra. Câu 33: Tam thai tiền, vương tự hậu, tiền hậu vinh xương Ngũ nhạc hậu, liên châu tiền, hậu tiền vinh hiển. Tam thai đằng trước, chữ vương đằng sau thì trước sau vinh xương. Ngũ nhạc ở sau, liên châu ở trước, thì sau trước vinh hiển. Luận câu 33: a. Thử địa sinh phong hầu, tử miếu thực. Kiểu đất này sống được phong hầu, chết được miếu thực (làm thần được cúng tế). b. Ngũ nhạc hậu, hậu ngũ tử giai vinh hiển đạt. Ngũ nhạc ở đằng sau, 5 con đều hiển đạt. c. Liên châu sơn kỳ giả, tiền phát liên châu. Liên châu sơn ở đằng trước thì trước phát liên châu. Câu 34: Thạch thất hoa khai, vọng chi nhi quý địa Thủy nguyên trước tĩnh, đắc chi nhi cát huyệt. Thạch thất hoa khai, nhìn đó mà biết là quý địa. Nguồn nước lặng im được chỗ đó mà làm huyệt tốt. Luận câu 34: a. Phàm thổ khởi, nhất cư huyệt dã, giai quy địa dã. Phàm đất gồ lên một chỗ mà làm huyệt, đều là đất quý vậy. b. Phàm thủy tính bản động, kiến tĩnh xứ giai hữu kết huyệt dã. Phàm nước tính vốn động, thấy chỗ nước im lặng thì có huyệt kết vậy. Câu 35: Nhất trùng bão khỏa nhất trùng khai. Tướng Tướng vương hầu tại thử gian. Tứ vi hoàn nhiễu tứ vi cố, công khanh phụ bật cư thử trú. Một trùng bao bọc, một trùng mở, tướng văn tướng võ vương hầu ở chỗ đó. Bốn bề quanh co bốn bề đoái lại, công khanh phụ bật đóng tại đó. Luận câu 35: a. Kết huyệt nội khai nhất trùng, ngoại cao nhất trùng, thủy khẩu tỏa mật, đích thị vương hầu chi địa Huyệt kết trong khai mở một trùng, ngoài lại cao lên một trùng, thủy khẩu thì đóng kín. Đúng là đất vương hầu. b. Tứ diện giai miên cung, loan cung bão, công khanh tất cư thử xứ Bốn mặt đều hình cánh cung, nằm ôm lấy, công khanh ở tại chỗ đó. Câu 36: Vị liệt đài giai, yếu đắc xích xà nhiễu ấn - Chức cư thanh quý, do hồ thanh long liên châu Ngồi ở đài giai, cần có xích xà nhiễu ấn. Chức ở thanh quý, do tại Thanh Long liên châu Luận câu 36: a. Như Cấn, Hợi kết cục Tỵ phương hữu ấn, như long bão hướng chủ quý dã. Như Cấn Hợi kết cục, Tỵ phương có ấn mà lại có long bão hướng, chủ quý vậy. b. Cấn, Hợi long kết cục, nhi long thân khởi tinh phong, chủ quý dã. Cấn, Hợi long kết cục mà trên thân long nổi tinh phong cũng chủ quý vậy. Câu 37: Dậu vị sơn cao tế ác khí, tĩnh thanh bất phi nhất hào. Mão phương thủy tụ án quang minh, long nhi cận, danh phương tứ hải. Dậu phương khí thanh tịnh, không bị xâm phạm mảy may. Mão phương nước tụ án quang đãng được gần long nhan (vua) tiếng lừng bốn biển. Câu 38: Mùi phương thê thiếp chi vị, sở ái giả trừu thanh. Mão phương quân vương chi vị, sở kỵ giả lăng áp. Mùi phương chủ thê thiếp, đáng yêu ở chỗ trong sạch. Mão phương chủ quân vương đáng kỵ là bị lấn át. Luận câu 38: a. Mùi phương chủ thê thiếp, như hữu viên sơn tú ứng, tất hữu hiền thê tú thiếp. Mùi phương chủ về thê thiếp, nếu có núi tròn thanh tú ứng về, sẽ có vợ hiền thiếp tốt. b. Mão phương nhật xuất chi minh quân, tượng như sơn cao lăng chi nội, vị chi lăng áp thái dương, nan thụ quân ân. Mão phương là chỗ mặt trời mọc, sáng sủa, tượng về vua, nếu ở trong có núi cao che khuất (che khuất mặt trời mọc) gọi là lấp che thái dương, khó mà được hưởng ơn vua. Câu 39: Càn, Khôn nhị vị đáo đầu, tuy phát phúc, chung niên bại tuyệt. a. Càn lão dương, Khôn lão âm, lưỡng long kết cục diệc phát nhất đại, bại tuyệt dã. Càn là lão dương, Khôn là lão âm, hai long này kết cục, cũng chỉ phát có một đời rồi bị bại tuyệt. b. Thìn, Tuất giai một khổ, long phát nhất đại nhi tử tôn bần cùng. Thìn, Tuất đều là mộ khố long, cũng chỉ phát được một đời rồi con cháu lại bần cùng. Câu 40: Tý, Ngọ, Dần, Thân, tứ dương long chi vị toàn Thìn, Tuất, Sửu, Mùi tứ mộ long chi sở ố. Tý, Ngọ, Dần, Thân là bốn dương long chưa được hoàn toàn. Thìn, Tuất, Sửu, Mùi là bốn mộ long thật đáng nên ghét. Luận câu 40: a. Tứ dương long phát nhất đại Bốn dương long chỉ phát được một đời. b. Tứ mộ long tuy phát phúc, tử tôn bại tuyệt. Bốn mộ long tuy phát phúc nhưng sau con cháu lại ngoan ngu bại tuyệt. Câu 41: Tiến nguyên đầu không, tài cao bất đệ a. Tốn, Tân không khuyết, tuy học quá nhận, ứng thí bất đệ Phương Tốn, Tân bị không khuyết, tuy sức học hơn người nhưng đi thi không đậu. b. Càn phương vô sơn, thâm thủy, niên hưởng bất kỳ Càn phương không có núi cao, lại nước sâu thì tuổi sống không được mấy. Câu 42: Đại sơn áp như thủy tinh tai hại tịnh chí. Mão tinh như nhật mã, hung họa tự tùy. Đại sơn áp tới thủy tinh, tai hại đều tới Mão sơn lấn sang nhật mã, hung họa theo tùy. Luận câu 42: a. Sửu phương hung vị, huyệt cư cận túc, hậu sơn lăng áp, tử tôn hung bạo, họa bại dã, nhật mã ngộ hỏa dã. Sửu sơn là hung vị, huyệt ở gần chân, hậu sơn lấn áp huyền vũ, con cháu hung bạo, họa bại vậy. b. Mão phương hữu sơn cư chi, chủ thống mục Mão phương có núi ở đó chủ về bị đau mắt. Câu 43: Thủy phóng Quỷ vị, nhi thê thiếp họa bại nan đào. Thủy phóng Ngưu phương, nhi tử tôn đạo tặc dị hư Thủy phóng ở Mùi vị, thê thiếp bị họa bại khó tránh. Thủy phóng ở Sửu phương, con cháu làm trộm cướp dễ hư Quý vị Mùi dã, Ngưu, Sửu phương dã. Quý là phương Mùi, Ngưu là phương Sửu. Câu 44: Đới đao, đới kiếm, bất nghi ư một khố chi vị Hân quần, vũ tụ, bất kham ư mộc dục chi hương Hình đới đao, đới kiếm không nên ở ngôi Mộ Khố. Hình hân quần vũ tụ, không nên ở nơi Mộc Dục. Luận câu 44: a. Mộ Khố: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi dã. Nhược kiến ư đao kiếm tại thử phương, tử tôn khởi đạo tặc dị tạo hình hại dã. Mộ Khố là 4 phương Thìn, Tuất, Sửu, Mùi nếu thấy có sơn hình như đao như kiếm ở phương đó thì con cháu sẽ khởi lên làm đạo tặc mà bị hình hại vậy. b. Mộc dục Tý, Ngọ, Mão, Dậu dã. Thử phương hữu hình như hân quần vũ tụ tất sinh hoa nguyệt chi nữ dã. Mộc dục là bốn phương Tý, Ngọ, Mão, Dậu – Nếu thấy phương đó có sơn hình như vén quần sốc áo tất sẽ sinh ra con gái trăng hoa vậy. Câu 45: Bình bát kiến ư Khôn, Thân tất sinh tăng ni. Án tinh kiến ư Dần, Thân tất sinh vu nữ Bình bát thấy ở Khôn, Thân tất sinh ra những tăng ni. Án tinh hiện ở Dần, Thân tất sinh ra bọn vũ nữ. Câu 46: Cao phong độc xuất ư nam phương, viên hình, khủng tai hình chi họa Cao phong trấn áp ư Thiên mẫu, khủng tân hạ đệ chi danh. Cao phong trơ trọi ở phương Nam, hình tròn, sẽ bị họa tai, hình sát. Cao phong trấn áp ở thiên mẫu e bị mang danh thì hỏng. Câu 47: Sửu, Mùi, Dần, Thân ngộ hồ lô, nhi phong tàn bệnh tật. Sửu, Mùi, Dần,Thân kiến bút, hoang hấn tụng từ. Sửu, Mùi, Dần, Thân gặp hình hồ lô, bị bệnh phong, tàn tật. Sửu, Mùi, Dần, Thân thấy hình bút, bị gây hấn kiện tụng. Câu 48: Minh đường can hạt, si bất đăng khoa Huyền vũ đê bạc, nhân vô thọ khảo Minh Đường khô khan, học trò không thi đỗ Huyễn vũ mỏng thấp, người không sống lâu Câu 49: Ngũ hành nhập miếu, tiểu cục thành nhân Tam tiêm sấm vân, sĩ nho cao trúng Ngũ hành ở chỗ miếu, vượng đất nhỏ cũng nên người. Ba cây bút chấm mây, học trò thi đỗ cao. Luận câu 49: a. Mộc cư Đông, Hỏa cư Nam, Kim cư Tây, Thủy cư Bắc. Giả như Đoài Kim mạch lai, Kim tác huyệt, ngộ nhất mộc cư Đông tại án, đắc miếu vượng, huyệt tuy tiểu diệc xuất công khanh. Ví như phương Đoài, mạch lai hình Kim, lại khai huyệt hình Kim. Có một hình Mộc ở phương Đông đến làm án, là miếu vượng nhất, dù đất nhỏ cũng phát công khanh. b. Giả như Tân, Dậu, Canh tam tiêm sấm vân, cát mạch nhập huyệt tọa nhi hướng chi, tất phát trạng nguyên dã. Nếu như ở phương Canh, Dậu, Tân có ba cây bút nhọn, vươn lên chấm mây, mà mạch cát. Phân kim tọa huyệt mà hướng đúng sẽ phát trạng nguyên. Câu 50: Nhất thốn thổ, nhất thốn Kim, tại hồ thủy tụ nhập hoài. Nhất Hỏa long, nhất Mộc án, thân sử Hàn lâm. Một tấc đất, một tấc vàng, cốt ở nước tụ vào lòng. Một hỏa long nhập huyệt gặp mộc làm án, ở chức Hàn Lâm vậy. Câu 51: Chiêu tặc quân tại Tý, Ngọ, do hồ Tý, Ngọ hoặc kiếm, hoặc kỳ, tất sinh hung tướng chi nhân. - Nhất thốn thổ, nhất thốn kim, tâm tư thiết thiết. Tam đẳng nhân, tam đẳng vật, tình tự v.v... Chiêu tặc quân tại Tý, Ngọ, do ư Tý Ngọ hoặc kiếm hoặc cờ, tất sinh ra người hùng tướng. Nhất thốn thổ, nhất thốn kim, lòng nhớ bâng khuâng. Tam đẳng nhân, tam đẳng vật lòng sầu man mác. Luận câu 51: a. Kim Mộc tương phản nhau Kim Hỏa tương cộng nhau Huyệt họa Mộc tinh, thấy trước án là Kim tinh sẽ khắc thể. Huyệt tọa Kim tinh cũng vậy. Kim huyệt mà nhập Hỏa chủ về tuyệt diệc. Mộc huyệt mà thấy Kim, tổn thương con cái. Câu 52: Cô sơn như lập tại Đông phương, thường xuất tăng ni đạo sĩ. Long mạch như loa tại Khôn, Thân thường xuất nghiêm sư, hòa thượng. Cô sơn như chiếc nón ở Đông phương, thường phát xuất tăng ni đạo sĩ. Mạch như ốc xoáy tại Tây phương thường phát xuất nghiêm sư, hòa thượng. Câu 53: Càn, Khảm, Cấn sinh viên ấn, phù pháp phong lưu Hợi, Mão, Mùi như bao tiểu Kim, y sư kinh nghiệm. Càn, Khảm, Cấn phương có hình án tròn sẽ phát thầy pháp, phong lưu Hợi, Mão, Mùi phươn có hình như bọc tiêu Kim phát thầy thuốc giỏi. Câu 54: Tiền sơn loạn y đố nữ loạn dâm, Long hổ giao nha vi đại sát. Phía đầu núi như loạn y sẽ phát gái ghen, loạn dâm. Tay Long Hổ giao nha (nhe răng vào nhau) là đại sát. Câu 55: Nẫu liên mật tinh nhi liên bạc mệnh Bát phong suy tảo, huyệt bán tử, bán ly Đệm liền như đào giếng, con cái luôn luôn bạc mệnh Tám phương gió thổi vào huyệt, nửa chết nửa phân ly. Câu 56: Tứ phương tiêm xạ huyệt, khởi tai khởi nghiệt. Bốn phương bắn nhọn vào huyệt, gây tai họa cho huyệt. Luận câu 56: Tả xạ trưởng nam tuyệt. Hữu xạ thứ nam vong Nhược nhiên đương diện xạ, trung tử định ly hương Bắn vào bên tả thì trưởng nam tuyệt, bắn vào bên hữu thì thứ nam chết, nếu bắn vào giữa, con giữa ly hương. Câu 57: Sa thủy nhược tà trắc, nữ nhân tham hoa sắc. Sơn tẩu Đông Nam, táng hậu nhất trương hung họa. Sa thủy nghiêng ghé, con gái trăng hoa. Núi chạy Đông Nam, sau khi táng bị một trận hung họa. Luận câu 57: Sa thủy do tán loạn, táng hậu tiền tài tán. Sa thủy tán loạn, chôn xong sẽ tán tài. Câu 58: Miếu xã ngộ táng huyệt, huyệt hạ nhân đinh tuyệt. Táng vào chỗ miếu xã, hạ huyệt xong sẽ bị tuyệt con cái. Câu 59: Tiền hậu kiến tước phá huyệt, hạ chiêu tai họa. Phía trước phía sau thấy hụt, phá, huyệt hạ rước lấy tai vạ. Câu 60: Long Hổ đoạn thủy xuất, định mãi tận điền trạch. Minh Đường thủy phản khuynh, tử tôn ly hương bại. Long Hổ đoạn thủy chảy ra, nhất định phải bán hết ruộng đất. Minh đường nước hắt nghiêng trở ra, con cháu phải xa làng, thất bại. Câu 61: Diện tiến kiến xạ Tào sát nhân bất dụng lực. Khảm úy Thìn nhi Khôn úy Mão Chấn kỵ Thân nhi Tốn kỵ Dậu Càn ố Ngọ nhi Đoài ố Tỵ Cấn kỵ Dần nhi Ly kỵ Hợi Trước mặt thấy mũi nhọn, giết người không dùng sức. Khảm sợ Thìn, Khôn sợ Mão Chấn kỵ Thân, Tốn kỵ Dậu Càn kỵ Ngọ, Đoài kỵ Tỵ Cấn kỵ Dần, Ly kỵ Hợi Luận câu 61: Khảm long kết huyệt nhi Thìn thượng hữu nha đao. Long kiến thủy giai hung họa chi triệu dã khả loại thử nhập cát dã. Khảm long kết huyệt mà trên cung Thìn có gò đống, núi non hình nha đao là hung họa. Long kiến thủy là Khảm long mà hướng Thìn có nha đao. Đây là phép Long Thượng bát sát. Xin xem Phụ Lục I cho rõ. Câu 62: Đinh Canh Khôn thượng thị Hoàng Tuyền. Ất Bính tu phòng Tốn thủy tiên. Giáp Quý hướng lai hưu kiến Cấn Tân Nhâm thủy lộ phạ đương Kiền Như sơn mạch cốt nhục đoạn thương, mạch tuyệt khí, tử tôn bại tuyệt dã. Đinh, Canh thì Khôn là Hoàng Tuyền. Ất Bính không nên phóng thủy ở Tốn. Giáp Quý hướng lai, lo thấy ở Cấn Tân, Nhâm thì sợ đường thủy ở Càn Nếu sơn mạch cốt nhục bị đoạn khí, con cháu bị bại tuyệt vậy. Lưu ý: Muốn biết rõ hơn ở câu 62 xin xem phụ lục II nói về Bát Đại Hoàng Tuyền. Câu 63: Thủy phá Thái Dương, dâm trọc chi thái tự khởi. Thủy phá Cấn vị, bần phạp chi thán tự sinh. Thủy phá Thái Dương, thói dâm trọc tự khởi. Thủy phá Cấn vị, lời than nghèo tự sinh Luận câu 63: a. Thái Dương: Tý, Ngọ, Mão, Dậu kỳ thủy tự Dậu phóng Mão hoặc chuyển Mão phóng Dậu Tý Ngọ diệc nhiên cách giai dâm thái dã. Thái dương là Tý, Ngọ, Mão, Dậu – Dòng nước từ Dậu phóng ra Mão, hoặc chuyển Mão phóng ra Dậu. Tý, Ngọ cũng thế, đều là cách dâm thái vậy. b. Cấn sinh phú, nhược Cấn thủy phi khứ giai bần tiện dã. Cấn chủ phú, nếu cấn thủy bị chảy đi đều là cách bần tiện vậy. Câu 64: Thủy lưu quy bối, cơ hàn khất cái Sơn tọa cô đơn, tử tôn nan kế Nước chảy lưng rùa, bị đói rét ăn mày Sơn ngồi cô đơn, con cháu khó bề nối dõi. Luận câu 64: Tọa tuyệt diện tiền, thủy như quy bối hoặc huyệt lộ hình Thủy như quy bối, tử tôn tất bần, khất cái. Cô đơn giả, sơn tân cận, hoặc bạc điền, đê điền, lưỡng biên vô hậu, khí vô tàng phong, tất tuyệt tự dã. Tọa tuyệt chỗ trước mặt như lưng rùa, con cháu nghèo, phải ăn mày. Cô đơn là núi gần sát hoặc bạc điền, đê điền ở hai bên không có hậu khí, không chắn gió tất bị tuyệt tự vậy. Câu 65: Đại để sơn thủy tụ chung, khí tú thanh, khuất khúc vi cát, trùng sơn xích thổ, băng phá, bạc độc vi hung. Đang thủy xu cát tỵ hung dĩ toàn kỳ thiện dã. Đại để sơn thủy tụ được tú khí, thanh thủy, khuất khúc là tốt. Còn trọc sơn, xích thổ, lở vỡ bạc độc là dở. Phải chọn sơn thủy sao cho xu cát tỵ hung để cho sự tốt lành được toàn vẹn. HŨU THẬP TAM CÁCH Tổ phát tả kiên nhập hữu kiên Sơn cao Huyền Vũ thủy chi huyền. Nhật minh nguyệt chiếu đường triều nội Thử địa vinh hoa phú quý toàn. CÁCH THỨ 13 Mạch khởi Tổ từ vai tả nhập vào vai Hữu Long, Núi Huyền vũ cao dày, thủy chảy như chữ chi, chữ huyền. Minh đường trong sách, được nhật nguyệt chiếu minh. Đất phát vinh hoa phú quý toàn vẹn. CHƯƠNG XIV NHẬT KỲ SƠN THỦY HỢP CÁT PHÁP A. HƯỚNG DẪN PHẦN NHẬT KỲ SƠN THỦY HỢP CÁT PHÁP Chương này cho biết cách tính thời gian kết phát trên 2 phương diện: Thể và Dụng. Thể là do hình thế đất mà biết, còn Dụng là do lý khí mà biết. B. NHẬT KỲ SƠN THỦY HỢP CÁT PHÁP Phép ấn định thời gian kết phát và sơn thủy hợp pháp 1. Long thủy nạp Giáp a. Càn long nạp Giáp thủy b. Khảm long nạp Quý thủy c. Cấn long nạp Bính thủy d. Chấn long nạp Canh thủy e. Tốn long nạp Tân thủy g. Khôn long nạp Ất thủy h. Đoài long nạp Đinh thủy Nạp Giáp như trên đây là hợp pháp tốt. 2. Bức và Khoáng a. Phàm xuất sơn bộ huyệt: - Nội bách bộ vi bức - Ngoại bách bộ vi khoáng Phàm xuất sơn bước tới huyệt: - Trong trăm bước là bức bách. - Ngoài trăm bước là khoáng đãng. b. Thủy tựu huyệt - Nội bách bộ vi cấp, - Ngoại bách bộ vi khoáng Từ nước tới huyệt: - Trong trăm bước là cấp - Ngoài trăm bước là hoãn. Về núi thì 3 năm đi một bước, nước mà thuận cũng đi một bước. Bởi vậy nên: Nghịch là cấp. Thuận là hoãn. 3. – a). Kiên, trì, động, cấp, tĩnh, thả: - Kim tính kiên - Thổ tính trì Sơn thủy cận cấp, vượng tướng = 18 chia 2 thành 9 nên 9 năm đã phát phúc. b). Hựu giả như Hỏa tính cấp, hỏa long hữu hỏa hình, thu tác huyệt, hỏa hướng, nghịch sa, nghịch thủy, tứ thế giai vượng tướng. Bất tất luận thiên địa, chi số, chiêu táng, mộ phát. Giả như Hỏa tính cấp, hỏa long hỏa hình nhận hỏa hướng: Nghịch sa là thủy, 4 thế đều vượng tướng. Bất tất phải luận về thiên địa số, sớm táng chiều phát vậy. c). Hựu giả như thổ tính trì, thổ long hựu thổ huyệt, giai sơn khoáng thuận. Cấn long, Canh hướng, như Cấn 7, Canh 8 = 7 + 8 = 15. Thập ngũ niên phát phúc dã. Hưu tù bội thập ngũ thập niên phát phúc dã. Lại giả như Thổ tính tri, thổ long lai thổ huyệt, sơn đều khoáng thuận. Nếu lập Cấn long, Canh hướng: Cấn 7, Canh 8 = 7 + 8 = 15, tức trong 15 năm sẽ phát phúc vậy. Nếu hưu tù thì 50 năm sau mới phát. 4. – a). Càn = nhất Đoài = nhì Ly = tam Chấn = tứ Tốn = ngũ Khảm = lục Cấn = thất Khôn = bát Giáp, Tỵ, Tý, Ngọ = 9 Ất, Canh, Sửu, Mùi = 8 Bính, Tân, Dần, Tân = 7 Đinh, Nhâm, Mão, Dậu = 6 Mậu, Quý, Thìn, Tuất = 5 Tỵ, Hợi = 4 b. Nghịch thủy, nghịch án, tả hữu tiền hậu cận giả nhi vượng tướng Viễn thủy cận án, nội mật ngoại kháng vi cát. Khuynh giả vi hưu tù. Vượng tướng giảm bán. Hưu tù bội thập. Nghịch thủy nghịch án, tả hữu trước sau, gần là vượng tướng. Thủy xa án gần, trong mật ngoài khoáng là cát. Nghiêng là hưu tù. Vượng tướng giảm đi một nửa. Hưu tù thì tăng lên gấp mười. c. Giả như Tý long, tác Ngọ hướng, sơn thủy cận cấp. Tý, Ngọ số cửu - Vượng tướng giảm bán giả Nhị cửu thập bát, cửu niên phát phúc dã. HỒI LONG CỐ TỔ CÁCH Thập tứ cách (14) HỮU THẬP TỨ CÁCH Hậu tiền sơn thủy các phân hành Chỉ thị sơn đầu chủ khách nghinh Long mạch hà tu cầu địa các Huyệt thành bất tất hợp thiên hình Hữu tình bất việt sơn hồi bão Sa xứ vô qua địa thản binh. CÁCH THỨ 14 Trước sau sơn thủy khéo phân hành. Chỉ ở sơn đầu chủ khách nghinh. Long mạch cần chi cầu địa các Huyệt thành chẳng hẳn hợp nguyên Hữu tình bởi tại sơn hoài bão Đâu phải không sa, (tài liệu photo mờ) Giả như Tý long, Ngọ hướng. Tý + Ngọ = 9 + 9 = 18 d. Thả khả suy thứ Hựu như: Tý dữ Sửu hợp. Ngọ dữ Mùi hợp. Dần dữ Hợi hợp Thìn dữ Dậu hợp Mão dữ Tuất hợp Tý dữ Thân hợp Tý số cửu Sửu tiên đáo cận ứng - Tự táng lục, thất niên vi bị cửu ngộ Sửu niên diệc phát phúc ư lục, thất niên dã. Ngoài ra có thể suy ở đây mà biết: Tý hợp Sửu Ngọ hợp Mùi Dần hợp Hợi Thìn hợp Dậu Mão hợp Tuất Tỵ hợp Thân. Số của Tý là 9 - Sửu tới trước sẽ ứng gần hơn. Kết quả: Từ lúc táng tới sáu, bảy năm (chưa tới 9 năm) mà gặp năm Sửu cũng phát phúc (năm thứ 6 thứ 7 vậy). e). Tha khả loại suy hựu giả như Ly Long tác Đoài hướng. Ly tam, Đoài nhị, Cộng thành ngũ. Sơn thủy cận vượng = nhi niên báo phát phúc. Hưu ngộ niên lưu sơn cốc ứng vạn niệm Ngoài ra có thể suy luận theo từng loại: Ly long = 3, Đoài hướng = 2 (2 + 3 = 5) Nếu sơn thủy cận, vượng thì hai năm rưỡi phát phúc, lại gặp năm có sơn cốc ứng vào thì càng ứng nghiệm. CHƯƠNG XV CẦU TỰ PHÁP A. HƯỚNG DẪN PHẦN CẦU TỰ PHÁP Phần này có liên quan đến thủy pháp. Các cụ để riêng một chương là vì xưa kia khoa địa lý rất chú trọng đến nhân đinh B. CẦU TỰ PHÁP 1. Kim trường sinh tại Tỵ 2. Mộc trường sinh tại Hợi 3. Hỏa trường sinh tại Dần 4. Thủy trường sinh tại Thân Đồ tự tam giả bối vượng nghinh sinh Giả như: 1. Dần Giáp Mão Ất thuộc Mộc. 2. Tỵ Bính Ngọ Đinh thuộc Hỏa 3. Canh Dậu Tân thuộc Kim 4. Hợi Tý Quý thuộc Thủy 5. Thìn Tuất Sửu Mùi Khôn Cấn thuộc Thổ. 6. Càn Đoài thuộc Kim 7. Chấn Tốn thuộc Mộc 8. Ly thuộc Hỏa 9. Khảm thuộc Thủy. Câu 1: Tốn long nhập thủ - huyệt đắc Hợi thủy nhập hoài vi sinh thủy đáo đường, tất vượng tử tôn. Tuy nhiên, Mộc hữu dương mộc, âm mộc. a. Tự Hợi chuyển Mão nhập, huyệt vi dương mộc Trường sinh tại Hợi. b. Tự Ngọ chuyển Mão nhập, vi âm mộc: Trường sinh tại Ngọ Dương thuận, Âm nghịch. Tử xứ phùng sinh. Câu 2: Như Canh, Dậu, Tân thuộc Kim, Trường sinh tại Tỵ, tử xứ tại Tý a. Mạch tòng tả lai, chuyển Kim nhập huyệt, Trường sinh tại Tỵ. b. Nhược tòng hữu lai, Trường sinh tại Tý. Như tại tả lai vi dương, thuận hành. Như tại hữu lai vi âm, nghịch hành. c. Trường sinh, Mộc dục, Quan đới, Lâm quan, Đế vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng. d. Tọa hướng sử: sinh vượng, nghi lai Tử, tuyệt nghi khứ e. Vưu ái giả, Thanh long báo tử Vưu nghiêm giả, Bạch hổ vệ tôn. Tử xứ phùng sinh: Như Canh, Dậu, Tân thuộc Kim Trường sinh ở Tỵ - Tứ xứ ở Tý. a. Mạch tự tả lại, chuyển sang Kim vào huyệt, Trường sinh ở Tỵ. b. Nếu mạch theo bên hữu lại: Trường sinh ở Tý. Nếu từ tả lại là dương thuận. Từ hữu lại chuyển sang là âm nghịch. c. Trường sinh, Mộc dục, Quan đới, Lâm quan, Đế vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng. d. Tọa hướng nên khiến cho Sinh, Vượng lai và nên bỏ Tử, Tuyệt. e. Đáng yêu nhất là Thanh Long bão tứ. Đang nghiêm nhất là Bạch Hổ vệ tôn. Câu 3: Mạch hành sinh khí, đắc sinh thủy đáo đường. Hoặc hữu Thanh Long bão tử phong, Bạch Hổ bão tử phong – vi bão tử vệ tôn. Mạch hành sinh khí. Được sinh thủy đáo đường, hoặc là Thanh Long ôm con ẵm cháu. Câu 4: Hoặc Thác Lạc sơn tại hậu vi thiếu tôn phù - hậu đích nghiệm dã. Hoặc Thác lạc sơn ở sau, đây là nghiệm và có cháu nhỏ dắt ở sau vậy. Câu 5: Sinh nam cầu Khảm, Cấn Chấn Sinh nữ cầu Tốn, Ly, Đoài Mạch Khảm, Cấn, Chấn vi tam nam Mạch Tốn, Ly Đoài vi tam nữ Hựu đắc sinh thủy đáo đường, đa sinh nam nữ dã. Muốn sinh con trai thì cầu mạch ở Khảm, Cấn, Chấn. Muốn sinh con gái thì cầu mạch ở Tốn, Ly, Đoài. Khảm Cấn Chấn là tam nam Tốn, Ly, Đoài là tam nữ Lại được sinh thủy đáo đường sẽ sinh nhiều con trai, con gái vậy. 1. Kim, Trường sinh tại Tỵ - Mộc trường sinh tại Hợi - Hỏa trường sinh tại Dần - Thủy trường sinh tại Thân. Muốn cầu tự thì phải bối vượng nghinh sinh. Tỷ như : Dần, Giáp, Mão, Ất thuộc Mộc, Tỵ, Bính, Ngọ, Đinh thuộc Hỏa, Canh, Dậu, Tân thuộc Kim, Hợi, Tý, Quý thuộc Thủy. Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Khôn, Cấn thuộc Thổ. Càn Đoài thuộc Kim. Chấn, Tốn thuộc Mộc. Ly thuộc Hỏa, Khảm thuộc Thủy. Tốn Mão long vào đầu, huyệt được Hợi thủy vào lòng là sinh thủy đáo đường. Tất sẽ vượng con cháu. Tuy nhiên Mộc có dương mộc, có âm mộc. Tự Hợi chuyển qua Mão vào huyệt là Dương Mộc, Trường sinh tại Hợi. Tự Ngọ chuyển qua Mão vào huyệt là Âm Mộc: Trường sinh ở Ngọ, Dương thuận, Âm nghịch. HỒI LONG CỔ TỔ Thập ngũ cách (15) HỮU THẬP NGŨ CÁCH Tổ phát cao phong cổn cổn lai Hùng Thư tả hữu lập môn đài Đường trung hữu thủy loan như nguyệt Án ngoại đường lai tịnh liệt thai Nam trù khổn ngoại bình doanh thượng Nữ quản cung trung phượng các khai Nhược kiến ngoại sơn phong trĩ lập. Vinh hoa phú quý đích vô sai. CÁCH THỨ 15 Tổ phát cao phong cuộn cuộn lai, Thư, Hùng hai phía lập môn đài Trong đường, án nhỏ cong như nguyệt Ngoài lại tam thai án thứ hai. Nam vào triều trước ngồi dinh thượng Nữ nhập cung sau ngự các đài. Nếu được núi ngoài cao đại lập Vinh hoa phú quý chẳng còn sai CHƯƠNG XVI ÂM DƯƠNG LUẬN A. HƯỚNG DẪN CHUNG VỀ ÂM DƯƠNG LUẬN VÀ ÂM DƯƠNG TỌA HƯỚNG LUẬN Phần này luận về âm dương là căn bản về khoa địa lý để thêm kiến thức cho các mục khác. Thật ra không thể nói hết về âm dương luận ở đây. Cho nên ta thấy nó có nhiều chỗ giống như ở các chương 12 – 13 – 14. B. ÂM DƯƠNG LUẬN Câu 1: Thiên địa vạn thù, âm dương nhị lý Trời đất chỉ thuộc về âm dương hai lẽ. Câu 2: Khinh thanh vi thiên, trọng trọc vi địa Mật tiểu vi âm huyệt, khoan đãi vi dương huyệt. Nhẹ và trong sáng là trời, nặng nề và đục là đất, chặt chẽ và nhỏ bé là âm huyệt, rộng lớn khoảng khoát là dương huyệt. Câu 3: Nhân đồ ngôn âm cung vô di ư dương cung, thử bất tri âm hữu di ư dương huyệt. Người ta chỉ biết âm cung không khác với dương cung, nhưng không hiểu âm huyệt có khác với dương huyệt. Câu 4: Dương cơ giả, nghi cao đại, khoan hình, phồn thế, hoặc nghịch thủy nhất phương, hoặc duyên giang nhất khu, giai tháp đại hậu khí chung tụ cư chi. Vì dương cơ nên cao lớn, khoan hình, hệ bởi thế đất, hoặc nghịch thủy một phương, hoặc ven sông một khu, đều phẳng, rộng hậu khí chung tụ ở đó. Câu 5: Ám địa kết, bàng nhân dĩ đắc Dương địa kết, nhân sở nan tri Âm địa kết người bên cạnh dễ được, Dương địa kết người ta khó biết. Câu 6: Âm địa tiểu tiểu hữu chi, bàng cận chi nhân dĩ đắc Chí nhi âm trạch đa cầu nghịch thủy, nghịch sơn - Tiện táng, tiện hành, nhược dung kết khí tụ dã. Âm địa nhỏ bé, chỗ nào cũng có nên người gần bên dễ được còn đến âm trạch, phần nhiều phải nghịch thủy, nghịch sơn, mà táng, mà làm, nếu dung kết thời khí tụ vậy. Câu 7: Dương địa kết thiên địa chi khí tụ chung ư thử, nhân sinh cư chi, kế thế đinh tài vượng, thả nhân sinh dương địa giai thụ thiên địa chi khí. Dương địa kết thì khí của trời đất chung tụ ở đấy, người sống ở đây được đời đời đinh tài đều vượng. Vả dĩ người sinh ở dương địa đều chịu khí của trời đất. Câu 8: Cư xử xuất nhập đắc thiên địa dung kết chi xứ tất hưởng thiên địa chi phúc, cố thế nhân nan cầu dương cơ dã. Cư xử xuất nhập được chỗ trời đất dung kết, tất nhiên được hưởng phúc của trời đất. Bởi vậy nên thế gian khó tìm được dương cơ vậy. Câu 9: Tự cổ ư kim thôn ấp đa thừa tiện hành chi thế, thiếu dong kết chi địa, nhược mỗ đắc vượng mạch, thôn ấp, nhất sơn hồi, hựu nhất thủy loan diệc phát thắng ư ấp trung Tự cổ chí kim, ở nơi thôn ấp phần nhiều là tùy theo cái thế tiện hành, chứ ít có đất dung kết. Nếu nơi nào được chỗ mạch vượng, trong thôn ấp có một ngọn núi hồi về, lại có một dòng nước bọc quanh, cũng sẽ phát hơn ở trong ấp. Câu 10: Cố viết, nhất thôn, nhất ấp, chung diệc hữu phú hữu bần chi dị - Phù sinh ư thổ, phản ư thổ, sự giai thổ, cố nhất thổ vi trọng. Dương trạch bẩm sinh chi khí vưu trọng, cố nhất dương thắng thập âm dã. Cho nên mới nóilà cùng ở trong một thôn ấp, mà cũng có người giàu người nghèo khác nhau, vì rằng sinh ở đất, mọi việc đều ở trong đất, co nên nhất đất là trọng. Dương trạch là khí bẩm sinh lại càng trọng. Bởi vậy nên một Dương hơn mười Âm vậy. NGỌA TỈNH DIỆN CÂU HƯỚNG NGUYỆT THỦY ĐỀ CÁCH Thập lục cách (16) HỮU THẬP LỤC CÁCH Tổ tông thực thực tổng thiên trùng Long mạch thô ngang nhất lý tòng Nhất tiết hoành lai nhi nhập cục Lưỡng sơn triều đối, lập Thần đồng Long cung tiên đáo hồi tây cá Hổ bạn hoành lai tất bảo long Ngoại tỉnh diện câu nhi hướng nguyệt. Tất nhiên phú quý nữ nam đồng CÁCH THỨ 16 Tổ tông cao đại, núi muôn trùng Long mạch thô ngang, một dặm vòng Một đốt quay ngang rồi nhập cục Hai gò triều đối lập Thần đồng Tay Long tới trước vòng Tây, bão Hổ lại vòng qua bão lại Long Huyệt giếng, tiền cong, ôm án nguyệt Tất nhiên vinh hiển nữ nam cùng CHƯƠNG XVII ÂM DƯƠNG TỌA HƯỚNG LUẬN A. ÂM DƯƠNG TỌA HƯỚNG LUẬN 1. Chấn, Canh, Cấn, Bính, Tốn, Tân, Đoài, Đinh, Tỵ, Sửu, Hợi, Mùi = toàn Âm Long Chấn, Canh, Cấn, Bính, Tốn, Tân, Đoài, Đinh, Tỵ, Sửu, Hợi, Mùi toàn là Âm long. 2. Càn, Khôn, Khảm, Ly, Thân, Tý, Thìn, Dần, Ngọ, Tuất vì Dương Long dã. Càn, Khảm, Ly, Thân, Tý, Thìn, Dần, Ngọ, Tuất là Dương long vậy. 3. Âm Long tác âm hướng, thuần âm bất phát Âm long làm âm hướng, thời thuần âm không phát. 4. Dương long tác dương hướng, thuần dương bất sinh. (Tài liệu mờ) Dương long làm dương hướng thời thuần dương không phát. Như Hợi long (âm long) làm Bính (âm hướng) thì lúc tọa huyệt phân Kim phải gia sang Ngọ (Dương) nửa phân, thừa lấy vượng, tướng, khiến cho hướng không có âm. Như Tý Long (Dương long) làm Ngọ hướng (dương hướng) thì lúc tọa huyệt phân Kim phải gia sang Mùi nửa phân, khiến cho hướng không cô dương. Ngoài ra đều theo như vậy. CHƯƠNG XVIII TỔNG LUẬN ĐẠI ĐỊA CẤP CHƯ HÌNH THỂ CÁCH A. HƯỚNG DẪN PHẦN ĐẠI ĐỊA CẤP CHƯ HÌNH THỂ CÁCH Phần này nhấn mạnh về hình thể các đất lớn trên hai khía cạnh Thể (loan đầu) và Dụng (lý khí). B. TỔNG LUẬN ĐẠI ĐỊA CẤP CHƯ HÌNH THỂ CÁCH Tổng luận đại địa cấp chư hình thể cách Đại huyết mạch Câu 1: Đệ nhất: Cấn Hợi long nhi dĩ Long hoặc hành tọa tinh, hoặc khởi nghịch hoa tinh, hoặc lâu đài bảo điện tinh. Đệ nhất chỉ có Cấn, Hợi long mà thôi. Long hành hoặc tọa tinh, hoặc khởi nghịch hoa tinh, hoặc lâu đài bảo điện tinh. Câu 2: Hoặc triều thiên mạo tinh Hoặc đại vương sơn Hoặc tiên phi vũ sơn Hoặc triều thiên mạo tinh, hoặc đại vương sơn, hoặc tiên phi vũ sơn Câu 3: Hoặc cửu tinh, củng bắc cực tinh sơn, Hoặc lực sĩ phù giá sơn phát nhi lai. Hoặc trường giang, trường hồ, đại khê, đại uyên dẫn mạch nhi lai Hoặc cửu tinh củng bắc cực sơn, hoặc lực sĩ phò giá sơn phát mạch mà lại, hoặc là trường giang, trường hồ, sông lớn, đầm lớn dẫn mạch mà tới. Câu 4: Thiên sơn tống mạch, phi thủy diễu thành Ngàn nước dẫn mạch, nước chảy quanh thành Câu 5: Tường kỳ chi phái Hiểu tường về là phái của nó Câu 6: Thập lý nội vi nội thế, thập lý ngoại vi ngoại thế Trong mười dặm là nội thế, ngoài mười dặm là ngoại thế. Câu 7: Kiến vi vạn thần khể cứu đầu tảng, vạn sơn hồi đầu Thấy có vạn thần lạy cục trân, vạn sơn quay Câu 8: Huyệt tọa hoa cái, huyệt tọa ngự bình, đoan trang, tôn nghiêm, nội trướng mạch tàng, thân ngoại lực sĩ thị lập. Huyệt tọa hoa cái, huyệt tọa ngự bình, đoan trang tôn nghiêm, trong có trướng mạc tàng chân, ngoài có lực sĩ đứng hầu. Câu 9: Thủy khẩu chấn bắc thần, đường tiền dung vạn mã. Thủy khẩu chấn bắc thần, trước minh đường dung được vạn mã. Câu 10: Hoặc bách chiết, thiên chiết, hoặc cửu khúc đương triều ư minh đường, thử đại địa dã. Hoặc trăm ngàn chỗ quanh khúc chiết, hoặc chín khúc triều về minh đường, đấy là đại địa vậy. Câu 11: Tường kỳ thành tiết long lai, tiên tri thành bại. Giả như huyệt tại liên diệp, mạch bát tiết ngộ dậu cô hư, mão vi hữu trừng thanh uyên thủ, thủy tụ hậu, phát ra nhi tuyệt. Biết rõ đốt nổi lên của long mạch, lại sẽ thấy rõ thành bại. Giả như huyệt ở liên diệp, mạch nổi tám đốt tiết qua Dậu, cô hư. Mão có vực nước trong sạch tu đằng sau, có phát sinh mà cũng bị tuyệt. Câu 12: Hoặc long hổ tam phiến tà phản, tất tam thế nghịch thần mưu phản nhi vong Hoặc long hổ có ba chỗ tà phản, tất nhiên bị ba đời nghịch thần, mưu phản mà suy vong. Câu 13: Hoặc long ngoại đệ thập phiến lưỡng đầu, kình tương đấu trí, thập đại huynh đệ tương sát nhi tiết. Hoặc ngoại long đốt thứ mười có hai đầu kình đầu nhau, thì tới đời thứ mười, anh em tàn sát lẫn nhau mà thất bại. Câu 14: Hoặc chuyển Mão nhi phóng Dậu, nhân dâm tà nhi thất vị. Hoặc chuyển qua Mão mà phóng ra Dậu, thì nhân dâm mà mất chức vị Câu 15: Nhược bình dương chi địa, dị tường, khứ sơn nhi sinh long hình, mạch thủy dĩ khu huyệt khởi phù kiệu liễm chi hình; nhất chủ sơn tự khách sơn nghinh. Như ở đất bình dương thì dễ thấy rõ, cát đùn núi như hình sinh long, mạch dư dồn cao lên huyệt như hình phò kiệu, một chủ sơn đến đón khách sơn. Câu 16: Hữu thủy triều nhiễu tả sơn loan bão, ngũ tiết mạch, ngũ phong yêu phát ngũ đại. Nước bên hữu lượn quanh, nước bên tả vòng ôm, mạch năm đốt tiết như năm sườn núi sẽ phát năm đời. Câu 17: Nhược thủy phóng tả hữu tốc huyệt Nếu nước phóng ra tả hữu thì chóng tuyệt. Câu 18: Nhiên đại địa bất cầu, tiểu địa xứ xứ hữu chi, tế nhận mạch sở chỉ, thủy chi sở giao... Song đại địa thì không thể tìm được, tiểu địa thì chỗ nào cũng có, tế nhận chỗ mạch ngưng, chỗ nước giao. Câu 19: Mạch huyệt hợp kỳ ngũ hành Sơn thủy hợp kỳ âm dương Mạch huyệt hợp với ngũ hành, sơn thủy hợp với âm dương Câu 20: Âm long, dương thủy, dương long âm thủy Tọa chung khí sinh tú chiên triển nậu. Phàm sơn địa kết huyệt, lưỡng biên áp huyệt khai dịch thủy – Âm long dương thủy, Dương long âm thủy, tọa chung khí sinh chiên thần như giải đệm. Câu 21: Hữu lai tả sa giả khí, tả lai hữu sa giả khí Mạch bên hữu lại, ở bên tả có sa che khí - Mạch bên tả lại, bên hữu có sa che khí. Câu 22: Huyệt tọa vô phong xuy, vô ngưỡng ngọa, tiền thủy tụ, hậu sơn hồi, nhất sa vệ huyệt, nhất thủy nghịch triều, túc dĩ hảo, phú quý dã, hà tầng tầng huyệt mạch dư? Huyệt tọa không bị gió thổi, không như viên ngói nằm ngửa, phía trước thủy tụ, phía sau sơn hồi, một sa vệ huyệt, một thủy nghịch triều, đủ để giữ giàu sang vậy, đâu cần phải tầng tầng huyệt mạch dư. Câu 23: Cố cứu bần giả, cầu Cấu thủy lai, tế tự túc giả cầu sinh thủy lai Chỉ nên muốn cứu bần, tìm Cấn thủy lại; muốn cầu tự, cầu sinh thủy lại. Câu 24: Văn bất trúng, cầu Tốn, Tân bút Vô bất đạt, cầu Chấn, Canh kỳ kiếm. Văn không đỗ tìm bút ở Tốn Tân Võ không đạt tìm cờ, kiếm ở Chấn, Canh Câu 25: Vệ thần ư Tỵ Bính, vũ tướng anh hùng Bút sáp nhĩ ư Cấn, Đinh văn thần khôi việt. Kiếm vệ thần ở Tỵ, Bính thì võ tướng anh hùng Bút cài tai ở Cấn, Đinh thì văn thần khôi việt. Câu 26: Bút sấm vân thiên hán ngoại, trạng nguyên tự kỳ Án tề diện mục thiên tân nội, thần công khả đoạt Bút chọc mây ngoài thiên hán thì trạng nguyên tự hẹn Án ngang diện mục trong thiên tân thì thần công khả đoạt. Câu 27: Tả lai nhi hữu hóa yểm tâm, thử địa cận thiên kim Hữu lai nhi tả hóa chính án, tích tiền thiên vạn quán. Từ tạ lại mà hữu hóa che tâm, đất có đáng ngàn vàng Từ hữu lại mà tả hóa chính án, chứa tiền vàng vạn quan. Cho nên mới nói: “duỗi tay sờ thấy án, tiền tài ngàn vạn quan” Câu 28: Đại để khí chất ngưng vi địa, như Kim dĩ ứng thủy, thùy lưu ư bình địa mỗ khích đê Như thủy chánh dòng lưu vi nhi tụ, diệc như địa khí ngộ thủy chi nhi tụ, cố nộn sinh nhi thủy tụ vi huyệt Đại để khí chất ngưng vị địa, như Kim dĩ ứng thủy, thùy lưu ư bình địa mỗ khích đê. Như thủy chánh dòng lưu vi nhi tụ, diệc như địa khí ngộ thủy chi nhi tụ, cố nộn sinh nhi thủy tụ vi huyệt. Đại để khí chất đọng lại làm đất như Kim ngăn nước cho chảy xuống đất bằng, chỗ nào hở, hơi thấp một chút là nước sẽ chảy sô vào mà tụ lại – Cũng như địa khí gặp nước ngưng mà tụ vậy. Câu 29: Sơn cốc tác oa, tà, thủy như giả vi mang Sơn cốc thời chỗ oa tà, thủy như là chỗ hơi gợn sóng. Ảnh triều giả niêm thân sa huyệt, nội thùy viên vựng, tọa bất khuynh, trác bất lộ phong, bất lâm đầu, bất cát cước. Ảnh triều là chỗ rủ vựng tròn thân trong sa huyệt, tọa huyệt không có nghiêng nghé, không bị gió, không lấm đầu (nước thấm ở đầu) không cát cước (cắt cụt ở chân). Câu 30: Bình dương tác tựu đột lĩnh, hoặc phương bình nhất thốn vi cao, khai khẩu minh dịch huyệt nội, trọng thất bất bạc, yếu sử an bình ư nội thử, hợp địa lý chi ứng, cái niêm mộc táng ư địa, do khô chủng ư thổ, thổ nhuận, mộc sinh. Bình dương thời tới chỗ đột lĩnh hoặc chỗ vuông phẳng, hơi cao lên một tấc, khai khẩu minh dịch trong huyệt, vững chắc không mỏng manh, cần khiến cho bình an ở bên trong, đấy là hợp với sự ứng nghiệm của địa lý vậy. Bởi chưng hài cốt hài cốt táng ở đất như là cây khô trồng ở đất thấm nhuần cây mọc lên. Câu 31: Địa chưng cốt tiếp mộc căn ư thổ, kỳ đới thâm, trọng, tự nhiên, chi diệp mậu thịnh, phụ mẫu chi hình hài, tử tôn chi hình cốt. Đất kết thì hài cốt tiếp phúc, gốc cây ở đất, rễ nó bén sâu, tự nhiên cành lá xanh tốt. Hình hài của cha mẹ ảnh hưởng đến hình cốt con cháu. Câu 32: Phụ mẫu cốt tiếp ư địa, kỳ khí tụ âm tự nhiên, tử tôn hưng thịnh, cố sơn thủy chi ứng như hạ, nhược thị đoạt thần công, cải thiên mệnh, năng linh bần cải phú tiện cải quý phi tha thuật khả ti dã. Hài cốt của cha mẹ táng ở chỗ đất có khí âm kết, tự nhiên con cháu thịnh vượng. Bởi vậy nên sự ứng nghiệm về sơn thủy làm thế nào mà đoạt được thần công, đổi được thiên mệnh, có thể khiến cho nghèo trở nên giàu, hèn đổi nên sang, không phải thuật khác có thể so sánh được. Câu 33: Tướng địa diệc tự tướng nhân, nhất ngữ cai vạn ngữ, nhất ngung phản tam ngung, túc dĩ minh sư hỹ. Xem đất cũng như xem người, một lời nói có thể khái quát được muôn lời, một góc có thể phản chứng được ba góc, thế mới đủ làm minh sư vậy. TẢ ĐƠN ĐỀ CÁCH Đệ thập bát (18) HỮU THẬP BÁT CÁCH Chú vân: Sơn lai uyển chuyển, cục thế tả đơn, tứ vi hỏa diệu, nội ngoại kim loan, chư tinh chiếu nội, sơn thủy hồi hoàn, đương tri thử cách, phát phúc vĩnh miên, nhược năng đắc địa, văn trúng Khôi nguyên. CÁCH THỨ 18 Lời chú: Long đi uyển chuyển, cục đất này gọi là tả đơn đề. Bốn phía đều có diệu tinh hình hỏa. Trong ngoài đều có kim tinh uốn cong, mọi tinh phong đều chiếu vào trong huyệt. Sơn, thủy bồi hoàn. Nếu biết được cách này mà táng thì phát phúc đời đời văn trúng Khôi nguyên. CHƯƠNG XIX LÂM ĐIỀN THÙY ẢNH A. HƯỚNG DẪN PHẦN LÂM ĐIỀN THÙY ẢNH Chương 17 cũng nói về tổng hợp như từ chương 12 đến đây nhưng nhấn mạnh một chút về cách xem các bóng mờ trên đất. B. LÂM ĐIỀN THÙY ẢNH Câu 1: Phàm mạch lâm điền thùy ảnh như thủy chi ba. Phàm mạch lâm điền thùy ảnh như gợn sóng trên mặt nước. Câu 2: Thượng điền thùy ảnh như ba chi thùy đầu Chỗ ruộng rủ bóng như là chỗ làn sóng chũi đầu Câu 3: Ba đầu khiến thổ long khí tụ huyệt, kiến phong Kim long đắc kết huyệt thượng, kiến thủy khí mộc tinh thụ huyệt gia dung kết chi địa. Đầu sóng đi vượt khí thổ long mà tới huyệt trước. Thấy Kim long được kết ở trên huyệt. Thấy thủy khí mộc tinh tiếp nhận ở trên huyệt. Đấy đều là dung kết. Câu 4: Nhược kiến hỏa nhập Kim hương vi ngụy khí, bất tuyệt tha phóng thử. Nếu thấy hỏa vào Kim hương là ngụy khí, không tốt các chỗ khác đều phỏng theo đây mà luận. Câu 5: Thế hữu vạn đoan, vạn hình, bất quá tứ thế nhi dĩ: Oa, Kiềm, Nhũ, Đột thị dã. Thế có vạn đoan vạn hình nhưng chẳng qua cũng chỉ có 4 thế thôi, tức là Oa, Kiềm, Nhũ và Đột vậy. Câu 6: Sở quý giả, tả hữu loan bão, tiền thủy tụ, hậu sơn cao, án ấn phân minh, thành quách quan tỏa, cao bất phong xuy, đê bất thoát mạch, quan mạch tương tiếp, thừa kỳ vượng tướng. Tỵ kỳ cô hư, xả kỳ không vong, tức dĩ cái địa lý chi nghĩa dã. Đất đáng quý là tả hữu vòng ôm lại, thủy đằng trước tụ, sơn đằng sau cao, án và ấn phân minh, thành quách kín đáo, cao mà không bị gió thổi, thấp mà không thoát mạch, quan tài và mạch tiếp giáp với nhau, đón lấy vượng tướng, tránh cô, hư, bỏ không vong. Đủ để bao quát về ý nghĩa địa lý vậy. HỮU ĐƠN ĐỀ CÁCH Đệ thập cửu (19) HỮU ĐỆ THẬP CỬU CÁCH Chú vân: Sơn lai uyển chuyển, cục thế Hữu đơn, tứ vi tiêm diệu nội ngoại kim loan, chúng tinh chiếu huyệt, hữu bạn hồi hoàn, hựu như thượng cách, phát phúc vĩnh miên, nhược năng đắc địa, vũ khổn binh quyền. Hựu văn: Sơn lai sinh cục, hữu bạn hồi hoàn, tả kiên tác chứng, cổ viết đơn đề, thử vị hữu Tiên cung huyệt cách dã. CÁCH THỨ 19 Lời chú: Sơn lại uyển chuyển, cục thế được gọi là Hữu Đơn, bốn phía đều là diệu tinh hình hỏa, trong ngoài Kim tinh đóng hình vòng cong, chúng tinh đều chiếu vào huyệt, bên hữu vòng ôm. Được như thượng cách sẽ phát phúc đời đời: Để được đất này sẽ phát võ khiến binh quyền. Lại nói: Sơn lại sinh cục, bên hữu ôm vòng, vai tả làm chứng nên gọi là Đơn Đề Cách hay Hữu Tiên Cung Huyệt Cách. HỮU ĐƠN ĐỀ CÁCH Đệ thập cửu (19) CHƯƠNG XX TƯƠNG SINH TƯƠNG SÁT A. HƯỚNG DẪN PHẦN TƯƠNG SINH TƯƠNG SÁT Vài nét đặc biệt về sinh sát của đất kết B. TƯƠNG SINH TƯƠNG SÁT Câu 1: Phàm Canh, Dậu, Tân khởi tổ, chuyển Bính, Ngọ, Đinh nhập huyệt, tuyệt mệnh, hỏa Kim hỏa bại. Cát huyệt tú, đới cô hư, huyệt vô khí giả, tiền phát hậu sát giã Phàm Canh, Dậu, Tân khởi tổ chuyển ra Bính, Ngọ, Đinh mà vào huyệt thì tuyệt mệnh. Hỏa với Kim thì hỏa sẽ làm bại mất. Cát huyệt tốt mà đới cô, hư, thì huyệt không có khí, trước phát nhưng sau bị sát vậy. Câu 2: Canh chuyển Hợi, Mão, hướng Canh, thử địa quan chí tam công Canh chuyển Hợi, Mão, hướng Canh - Đất này quan đến tam công. Câu 3: Hợi long chuyển Cấn, nhập huyệt, phú quý vĩnh bất tuyệt. Hợi long chuyển sang Cấn rồi vào huyệt, thì giàu sang lâu bền mãi không tuyệt. Câu 4: Cấn chuyển Bính nhập huyệt, văn vũ đa hào kiệt phú quý xuất văn chương Cấn chuyển sang Bính đi vào huyệt, thời phát văn võ, nhiều bậc hào kiệt, giàu sang và phát xuất cả văn chương. Câu 5: Bính, Ngọ chuyển Cấn nhập huyệt phú quý hữu thanh danh. Bính, Ngọ chuyển qua Cấn vào huyệt, giàu sang có tiếng tăm. Câu 6: Hợi chuyển Dậu, Canh, Tân nhập huyệt, văn vũ phát bất tuyệt Từ Hợi chuyển qua Dậu, Canh, Tân mà vào huyệt, phát văn, phát võ bất tuyệt. Câu 7: Khôn, Thân chuyển Tý, Quý nhập huyệt, hướng Khôn, Thân, thử địa sĩ bạt quần Từ Khôn, Thân chuyển sang Tý, Quý vào huyệt hướng về Khôn, Thân đất này nhân sĩ siêu quần. Câu 8: Càn sơn Càn hướng thủy lưu Càn, thử địa xuất quan liêu Càn sơn, Càn hướng, nước chảy ra ở Càn, đất này phát xuất quan liêu Câu 9: Ngọ sơn, Ngọ hướng, Ngọ thủy lai, phú quý tốc như lôi Ngọ sơn, Ngọ hướng, Ngọ thủy chảy lại, giàu sang mau như sấm. Câu 10: Cấn chuyển Canh, nhập huyệt hướng Cấn, văn võ tinh hành, tài bất tận. Từ Cấn chuyển sang Canh vào huyệt hướng về Cấn phát cả văn lẫn võ, tiền của không dùng hết. Câu 11: Thủy diễu hậu hướng tiền, phát phúc vĩnh miên miên Nước quanh phía sau, hướng về phía trước, phát phúc dài liên miên. Câu 12: Thủy nhập hoài triền huyền vũ, phú quý phát, giai tụ sơn thủy huyệt. Tiền nghinh vi cao trật cao thiên, sơn vô triền hậu, vi quan bị nhân đấu (bị cạnh tranh) Nước vào lòng, quanh về huyền vũ, đều phát cả phú, quý. Tụ sơn thủy đón ở trước huyệt, làm quan được thăng cao trật. Không có sơn quanh ở đằng sau, làm quan bị người ta đả kích. Câu 13: Thanh long uyển chuyển bút sinh liên. Thử thị thần đồng trạc thiếu niên Long đi uyển chuyển bút kề bên cạnh. Phát thần đồng tuổi thiếu niên Câu 14: Hổ lập tôn cư trác Kim, khởi thử địa, thượng thư, tha vô tỉ Hổ đứng lom khom. Kim vút, chỉ đất phát thượng thu ai dám ví. Câu 15: Hậu đầu thử vĩ vi quỷ, thất bộ thành thi, nhân tranh thị Phía hậu đầu có đuôi chuột làm quỷ, bảy bước thành thơ, người lác mắt. Câu 16: Tiền như lư tiên, quan nhất cử đăng khoa Phía trước mặt có lư tiên, quan, một bước đăng khoa. Câu 17: Thế sở nan, tiểu thủy phát thâm tương ngộ, thế hãn hữu chi phú quý, chỉ nhật khả kỳ, nhân nạn cập hỹ Đời rất khó, nước nhỏ cùng gặp phát ở sâu, ở đời hiếm có giàu sang, có thể hẹn ngày, người ta khó kịp vậy. PHÚ THƯƠNG TỌA THỊ LIỆT TỨ CÁCH Đệ nhị thập (20) HỮU NHỊ THẬP CÁCH Tổ khởi nhi lai trú hữu cung Hựu hoành đoạn tiết chí biên đông Nhập yêu tác huyệt oa vi quý Vạn khoảnh điền trang, gia phú ông CÁCH THỨ 20 Khởi Tố mạch lai chú hữu cung, Quay ngang một tiết tới bên đông, Mạch vào lưng huyệt khai oa quý, Vạn mẫu điền viên đích phú ông. PHỤ LỤC 1 Giải thích câu thứ 62 của chương 12 nói về “Long Thượng Bát Sát”. Câu 62 chương 12 sách nói về Long Thượng Bát Sát quá đơn giản nên phải giải thích thêm: Có 8 sát của long và thủy mà nhà địa lý phải biết để tránh tai họa cho thân chủ. Nếu gặp Bát sát này mà không biết tránh sẽ tạo nên hung họa và bại tuyệt cho con cháu gia đình để đất. Câu 62 nói về Long Thượng Bát Sát cần phải giải thích cho rõ thêm và mạch lạc hơn là nguyên văn sách có của nhà cụ Tả Ao để quý vị nghiên cứu đỡ mất thời giờ tìm hiểu. Tài liệu này chúng tôi lấy ở một bộ sách địa lý đặc biệt của dòng họ Dương Quán Tùng. Họ Dương là dòng họ chính tông địa lý nổi danh nhất Trung Hoa và nổi danh lâu đời nhất. Không phải cụ Tả Ao không biết Long Thượng Bát Sát, nhưng đây là tài liệu cụ học ở bên tàu mang về, con cháu cứ theo như thế ghi lại, mà sách Tàu cổ xưa thường trình bày kém mạch lạc. Do đó nên chúng ta là con cháu của cụ Tả Ao phải bổ túc. Long Thượng Bát Sát là 8 loại long sát ở trên long 1. Thứ nhất là: Khảm Long - Nếu là Khảm Long thì hướng Thìn rất xấu. 2. Thứ hai là: Khôn Thỏ. - Nếu là Khôn long thì hướng Mão rất xấu. 3. Thứ ba là: Chấn Sơn Hầu - Nếu là Chấn long thì hướng Thân rất xấu. 4. Thứ tư là: Tốn Kê. - Nếu là Tốn long thì hướng Dậu rất xấu. 5. Thứ năm là: Kiền Mã - Nếu là Càn Long thì hướng Ngọ rất xấu. 6. Thứ sáu là: Đoài Sà Đầu - Nếu là Đoài long thì hướng Tỵ rất xấu 7. Thứ bảy là: Cấn Hổ - Nếu là Cấn Long thì hướng Dần rất xấu. 8. Thứ tám là: Ly Trư - Nếu là Ly long thì hướng Hợi rất xấu. Đễ dễ nhớ người ta đọc thuộc lòng như sau: 1. Khảm Long Khôn Thỏ, Chấn Sơn Hầu 2. Tốn Kê, Kiền Mã, Đoài Xà Đầu 3. Cấn Hổ, Ly Chư vi sát diệu 4. Mộ trạch phùng chi nhất tề hưu Ý nghĩa của 4 câu thơ như sau: Câu thứ nhất: Khảm Long, Khôn Thỏ, Chấn Sơn Hầu. a. Có nghĩa là quẻ Khảm (gồm 3 chữ Nhâm Tý Quý) cấm kỵ Long (tức là cấm kỵ Thìn). Do đó cấm tọa Thìn cấm hướng Thìn, cấm thủy từ Thìn lại và cấm có sơn ứng tự Thìn. b. Tiếp theo là quẻ Khôn (gồm ba chữ Mùi, Khôn, Thân) cấm kỵ Mão (thỏ), do đó cấm tọa Mão, cấm hướng Mão, cấm thủy từ Mão lại và cấm sơn ứng ở Mão. NGOẠI CẦM NỘI THÚ ĐẠI TIỂU NOA TINH CÁCH Thập thất cách (17) HỮU THẬP THẤT CÁCH Tổ sơn đại khởi nhập Long kiên Thủy nhiễu loan hồi hậu đáo tiền Tả hữu loan hoàn lai hướng phục Tế vi nhất tiết nhập yêu thiên. CÁCH THỨ 17 Tổ sơn cao khởi, chuyển vai Long, Tu hậu lai tiên, thủy uốn cong Long, Hổ, sa loan, triều, củng, phục. Tinh vi nhất mạch nhập yêu cong. c. Tiếp theo là quẻ Chấn (gồm 3 chữ Giáp Mão, Ất, mạch từ quẻ chấn đến thì kỵ Hầu (hầu là Thân). Do đó cấm tọa Thân, cấm hướng Thân, cấm thủy từ Thân lại và cấm sơn ứng ở Thân. 2. Câu thứ hai: Tốn Kê, Kiền Mã Đoài Xà Đầu a. Có nghĩa là quẻ Tốn (gồm 3 chữ Thìn Tốn Tỵ), long mạch từ quẻ Tốn đến thì kỵ Kê (kê là dậu). Do đó cấm tọa Dậu, hướng Dậu, cấm thủy từ Dậu lại và cấm có sơn ứng tại Dậu. b. Tiếp theo là Kiền Mã là quẻ Kiền (gồm 3 chữ Tuất Kiền Hợi), nếu long mạch từ Kiến đến thì kỵ Mã (Ngọ). Do đó cấm tọa Ngọ, hướng Ngọ, cấm thủy từ Ngọ lại, và cấm sơn ứng ở Ngọ. c. Tiếp theo là quẻ Đoài (gồm 3 chữ Canh, Dậu, Tân). Nếu long mạch tự Đoài đến thì kỵ Xà (xà tức là Tỵ). Do đó cấm tọa Tỵ hướng Tỵ, thủy tự Tỵ lai và cấm sơn ứng ở Tỵ. 3. Câu thứ ba: Cấn Hổ, Ly Trư vi sát diệu Có nghĩa là: a. Quẻ Cấn (gồm 3 chữ Sửu Cấn Dần). Nếu long mạch từ Cấn lại (hay từ Sửu Cấn Dần lại) thì kỵ Hổ (Dần) do đó cấm tọa Dần, hướng Dần, cấm thủy từ Dần lại và cấm sơn ứng ở Dần. b. Quẻ Ly (gồm 3 chữ Bính Ngọ Đinh). Nếu long mạch từ quẻ Ly hay hướng Ly lại thì kỵ Trư (trư tức là Hợi). Do đó cấm tọa Hợi, hướng Hợi, cấm thủy từ Hợi lại và cấm sơn ứng tại Hợi. Tám cách trên là sát diệu ta gọi là Bát Sát. 4. Câu thứ tư: Mộ trạch phùng chi nhất tề hưu Có nghĩa là âm phần và dương trạch nếu gặp phải tám loại sát như trên thì mọi sự đều hư hỏng, tai hại nguy hiểm cho cả tính mệnh con người, phải nên cẩn thận đề phòng, tránh những điều cấm kỵ như trên. Nếu những điều cấm kỵ trên mà còn có mũi nhọn (nha đao) đâm vào tim huyệt thì chắc chắn tai họa không thể tránh được. Cho nên khi điểm huyệt phải công phu làm sao tránh né được bát sát. Cụ Tả Ao có khuyên ta thu cái tốt, tránh cái xấu như sau: Mình sinh ám tử vô di Coi đi coi lại quản chi nhọc nhằn Quả nhiên huyệt chính long chân Tiêu sa nạp thủy chớ lầm một ly Táng thôi phúc lý tuy chi Trâm anh bất tuyệt thu thi gia truyền THẠCH THẠCH CAO PHI TIÊU MÔN GIÁ QUÝ Nhị thập nhất cách (21) HỮU NHỊ THẬP NHẤT CÁCH Chú vân: Sơn lai sổ lý, chi cán phân hành, đại hình đại thế, nội minh ngoại minh, long lai hổ bão, vạn thủy truùg thanh, tiêu môn giá quý, địa chấn khoa danh, đa sinh cự phú, thế xuất anh hùng, thử giai quy cách dã, dĩ thượng nhị thập nhất đồ, giai vi quý cách dã, đích vi chân huyệt. Hoặc tác âm phần, hoặc tác dương trạch, giai đoạn phú qu, chi cách dã, thử vị minh sinh lai chi, pháp dã. CÁCH THỨ 21 Lời chú: Sơn mạch chạy từ nhiều dặm lại, chi can phân chia mà đi, hình lớn thế lớn; trong rõ ngoài rõ. Long vòng Hổ bão, vạn ngọn nước lắng trong, là cách. TIÊU MÔN GIÁ QUÝ, đất phát khoa danh chấn động thiên hạ, thường sinh cự phú, đời đời phát xuất anh hùng, thật là quý cách vậy. Trong cách này: đúng là chân huyệt, nếu táng mộ hoặc làm nhà đều được đại phú, đại quý. THẠCH THẠCH CAO PHI TIÊU MÔN GIÁ QUÝ Nhị thập nhất cách (21) PHỤ LỤC 2 Giải thích câu 63 của chương 12 về Bát Đại Hoàng Tuyền. Câu 63 chương 12 nói về Bát Đại Hoàng Tuyền quá cô đọng nay xin giải thích thêm. Có 8 loại hoàng tuyền hướng và thủy (nước lại nước đi) sát mà làm địa lý cần phải biết để tránh hung họa cho giả chu. Phép đó thu vào 4 câu thơ như sau: Khứ lai thủy lộ bát đại hoàng tuyền. 1. Đinh, Canh, Khôn thường thị hoàng tuyền. 2. Ất, Bính tu phòng Tốn thủy tiên. 3. Giáp, Quý hướng lai hưu Kiến, Cấn. 4. Tân, Nhâm thủy lộ phạ dương Kiền. Giải nghĩa: Nước lại, nước đi tám lại hoàng tuyền sát (tục gọi là Sát nhân Đại Hoàng Tuyền). Câu thứ nhất: Đinh, Canh, Khôn thượng thị Hoàng Tuyền. Có nghĩa là: ở Mộc cuộc long bị hoàng tuyền hướng và thủy sát, nếu ta: - Thu Canh (Thai) thủy - Thu Đinh (Mộ) thủy lên minh đường. - Hoặc lập Khôn (Tuyệt) thủy lên minh đường - Hoặc lập Đinh (Mộ) hướng Canh (Thai) hươớg. Là bị Hoàng Tuyền hướng hoặc thủy sát. (Tài liệu photo mờ) - Hoặc lập Tốn (tuyệt) hướng, thu Tốn (tuyệt) thủy lên minh đường. - Hoặc lập Ất (mộ) hướng, Bính (thai) hướng là bị hướng hoặc thủy sát. Câu thứ ba: Giáp, Quý hướng trung hưu Kiến, Cấn. Có nghĩa là ở Kim cuộc long bị hoàng tuyền hướng và thủy sát nếu ta: - Thu Giáp (thai) thủy, Quý (mộ) thủy lên minh đường. - Hoặc lập Cấn (tuyệt) hướng, thu Cấn (tuyệt) thủy lên minh đường. - Hoặc lập Giáp (thai) hướng, Quý (mộ) hướng là bị hướng hoặc thủy sát. Câu thứ tư: Tân, Nhâm thủy lộ phạ dương Kiền. Có nghĩa là ở hỏa cuộc long bị hoàng tuyền hướng và thủy sát nếu ta: - Thu tân (Mộ), Nhâm (thai) hướng lên minh đường. - Lập Càn (tuyệt) hướng, thu Càn (tuyệt) thủy lên minh đường. - Lập Tân (mộ) hướng Nhâm (thai) hướng lên minh đường là bị hướng hoặc thủy sát. Thu thủy như trên là bị hoàng tuyền sát. Hoàng tuyền thủy nên phóng cho chảy đi, không nên cho nhập cuộc lên minh đường. Lại lập những hướng trên vừa kể là hoàng truyền thủy và hướng sát. Tức là thu Hướng và Thủy giết người, phải nên hết sức kiêng kỵ. Làm địa lý không nắm vững Long Thượng Bát sát và Bát Đại Hoàng Tuyền thì tạo hóa cho người để đất. Vậy phải hết sức kiêng kỵ. Bởi quan trọng nên Cao Trung xin trình bày kỹ lưỡng phụ lục này lên quý vị độc giả. PHỤ LỤC 3 THỦY PHÁP Hướng dẫn: Thủy pháp trong khoa Địa lý là phần quan trọng nhất. Nó là phần bí truyền của khoa Địa lý. Có nhiều vị học Địa lý 30, 40 năm mà vẫn không nắm được Thủy pháp. Làm địa lý mà không biết thủy pháp thì không thể biết được đâu là chân huyệt, đâu là giả huyệt do đó 10 ngôi có thể lầm đến 9 ngôi. Nội cuộc của một cuộc đất đầy đủ rồi mà Thủy pháp trúng thì 10 ngôi trúng cả 10. Phần Thủy pháp này nếu muốn nắm vững thì phải biết phân biệt tổng quát như sau: 1. Tất cả có 4 cuộc long là: Kim cuộc, Mộc cuộc, Thủy cuộc và Hỏa cuộc long. 2. Mỗi cuộc long có 6 huyệt là: - Chính sinh hướng - Chính vượng hướng - Tự sinh hướng - Mộ hướng - Dương hướng 3. Mỗi cuộc long đều có nước từ đâu đến Minh đường và từ minh đường chảy đi là thủy khẩu. 4. Nước có thể chảy xuôi, hay chảy ngược chiều kim đồng hồ, chảy xuôi là thuận, chảy ngược chiều kim đồng hồ gọi là chảy nghịch. 5. Các chính sinh của các cuộc long đều giống nhau duy chỉ có hướng và thủy khẩu khác nhau. Các chính vượng, tự sinh, tự vượng và mộ, dưỡng cũng vậy. CUỘC ĐẤT HỎA CUỘC LONG – CHÍNH SINH HƯỚNG (Dần, Ngọ, Tuất tam hợp Thành hỏa cuộc long) Thủy Tiêu Tân Tuất – Chính Mộ Khố Lưu ý: Nếu dùng cuộc đất này thì Tay Hổ dài và Tay Long ngắn. HỎA CUỘC LONG – CHÍNH SINH HƯỚNG Huyệt thứ 1 và của 6 huyệt thuộc Hỏa cuộc Long. Vượng khứ nghinh sinh, chính sinh hướng. Cục thế: Tả toàn long thụ hữu toàn thủy. Lập tọa Khôn hướng Cấn kiêm Dần ba phân. Trước phải thu bính Ngọ đế vượng thủy, tự sau vai bên hữu vào minh đường, thu Tốn Tỵ lâm quan thủy, thứ nữa thu Ất, Thìn quan đới thủy vào minh đường, rối đến Giáp Mão quý nhân thủy, rồi thu Cấn Dần (cung này là hướng thượng bản vị) tràng sinh thủy đem lại minh đường, vòng sang bên tả tiêu ra chữ tân là mộ khố. Đây là phép táng chính sinh hướng, nếu được hướng này, thì nhân đinh rất vượng, phú quý song toàn, bền lâu mãi mãi. CUỘC ĐẤT HỎA CUỘC LONG – CHÍNH VƯỢNG HƯỚNG (Dần, Ngọ, Tuất – Tam hợp thành hỏa cuộc long) Thủy Tiêu Tân Tuất – Chính Mộ Khố Lưu ý: Nếu dùng cuộc đất này thì Tay long phải dài và Tay Hổ phải ngắn. CHÍNH VƯỢNG HƯỚNG Hỏa Cuộc Long Chính Vượng Hướng này là huyệt thứ II của 6 huyệt thuộc Hỏa Cuộc Long. Sinh lai hội vượng, chính vượng hướng. Cục thế: Hữu toàn long, thu tả toàn thủy. Lập tọa Nhâm hướng Bính kiêm ngọ ba phân, nghinh lộc. Lập tọa Tý hướng Ngọ kiêm bính ba phân, tá lộc. Trước phải thu nước bên tả, Cấn Dần, tràng sinh thủy, Giáp Mão quý nhân thủy, Ất Thìn quan đới thủy, Tốn Tỵ lâm quan thủy, vào minh đường rồi thu Bính Ngọ (cung này là hướng thượng bản vị) thủy vào minh đường rồi vát thủy tiêu ra Tân, khố chảy đi. Phép tàng chính vượng hướng nếu được hướng này lại được long chân huyệt đích, thì phát tài, người thịnh, của nhiều, phát đạt bền lâu. CUỘC ĐẤT HỎA CUỘC LONG - TỰ SINH HƯỚNG (Dần, Ngọ, Tuất, tam hợp thành hỏa cuộc long) Thủy Tiêu Tân Tuất Chính Mộ Khố Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì Tay Hổ hơi dài và Tay Long hơi ngắn. HỎA CUỘC LONG - TỰ SINH HƯỚNG Huyệt thứ III thuộc 6 huyệt của Hỏa cuộc Long. Đây là phép biến cục, tá khố tiêu thủy, tự sinh hướng. Cục thế: Tả toàn long, thu hữu toàn thủy. Lập tọa Tý, hướng Hợi, kiêm Kiền ba phân. Lập tọa Tốn, hướng Kiền, kiêm Hợi ba phân. Nước từ bên hữu đổ sang bên tả. Lấy cung Kiền, cung Hợi ngay vị trí chữ tuyệt khởi tràng sinh, nghĩa là tự mình hướng thượng khởi tràng sinh cho mình, đây gọi là tuyệt sứ phùng sinh (ngay cung tuyệt gặp tràng sinh0. Trước phải thu Giáp Mão là đế vượng thủy, Cấn Dần là lâm quan thủy, Quý Sửu là quan đới thủy, Nhâm Tý là quý nhân thủy, rồi thu Kiền Hợi là tràng sinh thủy (cung này là hướng thượng bản vị) vào minh đường. Phép này gọi là khố tiêu nạp (mượn khố tiêu thủy khẩu). Táng được hướng này phát rất mau và phát nhân đinh nhiều phú quý rất lớn. CUỘC ĐẤT HỎA CUỘC LONG - TỰ VƯỢNG HƯỚNG (Dần, Ngọ, Tuất Tam hợp Hỏa cuộc long) Thủy Tiêu Tân Tuất Chính Mộ Khố Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì Tay Long hơi dài và Tay Hổ hơi ngắn. HỎA CUỘC LONG - TỰ VƯỢNG HƯỚNG Huyệt thứ IV của 6 huyệt thuộc Hỏa cuộc long. Đây là phép biến cục, tá khố tiêu thủy, tự vượng hướng. Cục thế: hữu toàn long, thu tả toàn thủy. Lập tọa Giáp, hướng Canh kiêm Dậu ba phân, nghinh lộc. Lập tọa Mão, hướng Dậu, kiêm canh ba phân, tá lộc. Nước từ bên tả đổ sang bên hữu, lấy cung Canh Dậu ngay vào vị trí chữ tử hóa thành chữ vượng, đây là tự mình khởi lấy vượng hướng thượng. Nếu vượng ở cung Dậu, thì tràng sinh phải ở cung Tỵ (Tốn Tỵ) đây thu Tốn Tỵ là tràng sinh thủy, Bính Ngọ là quý nhân thủy. Đinh Mùi là quan đới thủy, Khôn Thân là lâm quan thủy, rồi đến Canh Dậu là đế vượng vượng thủy (cung này là hướng thượng bản vị) vào minh đường, rồi tiêu ra chữ Tân là mộ khố, cứ tính như phép tá cục tiêu thủy này, thì vượng tá cục Tân Tuất là suy, vậy nên gọi là tá suy phương xuất thủy (mượn phương suy cho nước tiêu ra). Táng được hướng này phát phú rất mau, mà đinh tài quý gồm cả, tức là lối biến cục hóa tử vi vượng (hóa chữ tử làm chữ vượng). Như trên bốn huyệt trong hỏa cục long, phải tiêu thủy ra chính mộ khố mới được lập hướng. Bốn hướng là: chính sinh, chính vượng, tự sinh, tự vượng. Công thức này là tam hợp Dần, Ngọ, Tuất, tức như Cấn, Bính, Tân lấy âm dương phối hợp thành cục. Đây tuy nhiên nói là biến cục, tá khố tiêu thủy nhưng phải tiêu nạp (thu thủy và tiêu thủy) đúng với công thức của nó mới được lập hướng, ngoại trừ không được những hướng khác với bốn công thức trên, nếu thấy thủy đã tiêu ra tân khố. CUỘC ĐẤT CUỘC LONG – CHÍNH MỘ HƯỚNG (Dần, Ngọ, Tuất, Tam hợp, Hỏa Cuộc Long) Thủy Tiêu Tân Tuất Chính Mộ Khố Lưu ý: nếu dùng cuộc đất này thì Tay Long hơi dài và Tay Hổ hơi ngắn. HỎA CUỘC LONG – CHÍNH MỘ HƯỚNG Huyệt thứ V của 6 huyệt thuộc Hỏa cuộc long. Cách: Lộc tồn lưu tận bội kim ngư. Chính mộ hướng. Cục thế: Tả toàn long thu hữu toàn thủy. Lập tọa Ất hướng Tân, kiêm Tuất ba phân nghinh lộc. Lập tọa Thìn hướng Tuất kiêm Tân ba phân tá lộc. Nước bên tả đổ sang bên hữu, trước phải thu nước cung Tốn cung Tỵ là lâm quan thủy, thứ đến thu nước cung Bính, cung Ngọ là đế vượng thủy, vào minh đường rồi thu nước bên tả là cung Cấn cung Dần tràng sinh thủy vào giao hợp trước minh đường, rồi vát ra ngôi chữ tuyệt là Kiền Hợi, cho thủy khẩu tiêu đi. Bởi ngôi chữ tuyệt là vị trí sao lộc tồn, nước ở cung này chỉ nên tiêu đi không nên triều lại, nên dùng làm thủy khẩu rất tốt. Lập hướng này: thu cả nước ở ngôi đế vượng đến mình đường, phép táng này đúng với câu: Tân nhập kiền cung bát vạn trạng (hướng tân thủy tiêu kiền có hàng trăm vạn điền trang). Táng được hướng này thì con trai con gái phát đồng đều, giàu sang thịnh đạt. CUỘC ĐẤT HỎA CUỘC LONG CHÍNH DƯỠNG HƯỚNG (Dần, Ngọ, Tuất tam hợp thành hỏa cuộc long) Thủy Tiêu Tân Tuất Chính Mộ Khố Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì Tay Hổ hơi dài và Tay Long hơi ngắn. HỎA CUỘC LONG – CHÍNH DƯỠNG HƯỚNG Huyệt thứ VI của 6 huyệt thuộc Hỏa cuộc long. Cách: Quý nhân lộc mã thượng ngư nhai, chính dưỡng hướng. Cục thế: Tả toàn long thu hữu toàn thủy. Lập tọa Đinh, hướng Quý, kiêm tý ba phân, nghinh lộc. Lập tọa Mùi, hướng Sửu, kiêm quý ba phân, tá lộc. Nước bên hữu đổ sang bên tả, thu nước ở cung Cấn, cung Dần là tràng sinh dưỡng (bản vị hướng thượng) vào minh đường, quy về ngôi chữ tuyệt là kiền hợi, tức là thủy khu tiêu đi, bởi vị trí nơi chữ tuyệt nên tiêu nước đi không nên thu nước lại. Lập hướng này con cháu được thịnh đạt, sang giàu khoa giáp văn chương. Nói về hỏa cục long, nếu thấy nước về chữ tuyệt, chỉ được lập hai phép: một là chính mộ hướng, hai là chính dưỡng hướng. Kỳ dư: Cấm không được lập hướng nào khác hơn hai hướng trên. Nói tóm lại, hỏa cục long có 6 hướng tốt là: chính sinh chính vượng, tự sinh tự vượng, chính mộ và chính dưỡng, những hướng sinh, hướng vượng thì thủy phải tiêu ra chữ tuyệt mới là hợp cách. CUỘC ĐẤT THỦY CUỘC LONG – CHÍNH SINH HƯỚNG (Thân, Tý, Thìn Tam hợp thành Thủy Cuộc Long) Thủy tiêu Ất Thìn Chính Mộ Khố Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì Tay Hổ dài và Tay Long ngắn. THỦY CUỘC LONG – CHÍNH SINH HƯỚNG Huyệt thứ 1 của 6 huyệt thuộc Thủy cuộc long. Vượng khí nghinh sinh, chính sinh hướng Cục Thế: Tả toàn long, thu hữu toàn thủy Lập tọa Dần hướng Thân, kiêm Khôn ba phân. Lập tọa Cấn hướng Khôn kiên Thân ba phân. Trước phải thu Nhâm Tý đế vượng thủy từ sau vài bên hữu vào minh đường, thứ khu Kiền Hợi, lâm quan thủy, thứ nữa Tân Tuất, quan đới thủy vào minh đường rồi đến Canh Dậu quý nhân thủy, rồi thu Khôn Thân tràng sinh thủy (cung này là hướng thượng bản vị) đem lại minh đường, vòng sang bên tả tiêu ra chữ Ất là mộ khố. Đây là phép táng chính sinh hướng, nếu được hướng này thì nhân đnh rất vượng, phú quý song toàn, bền lâu mãi mãi. CUỘC ĐẤT THỦY CUỘC LONG – CHÍNH VƯỢNG HƯỚNG (Thân, Tý, Thìn Tam hợp, Thành Thủy Cuộc Long) Thủy Tiêu Ất Thìn Chính Mộ Khố Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì Tay Long dài và Tay Hổ ngắn. THỦY CUỘC LONG – CHÍNH VƯỢNG HƯỚNG Huyệt thứ II của 6 huyệt thuộc Thủy cuộc long Sinh lai hội vượng Chính vượng hướng Cục thể: hũu toàn long thu tả toàn thủy. Lập tọa bính, hướng nhâm, kiêm hợi ba phân nghinh lộc Lập tọa Ngọ, hướng Tý, kiêm Nhâm ba phân tả lộc. Trước phải thu nước bên tả, Khôn Thân tràng sinh thủy, Canh Dậu quý nhân thủy, Tân Tuất quan đới thủy Kiền Hợi lâm quan thủy vào minh đường, rồi thu Nhâm Tý (cung này là hướng thượng bản vị) thủy vào minh đường rồi vát thủy tiêu ra Ất khố chảy đi. Phép táng này chính vượng hướng lại được long chấn huyệt đích, thì phát tài, người thịnh của nhiều, phát đạt bền lâu. CUỘC ĐẤT THỦY CUỘC LONG - TỰ SINH HƯỚNG (Thân, Tý, Thìn Tam Hợp Thành Thủy Cuộc Long) Thủy Tiêu Ất, Thìn, Chính Mộ Khố Lưu ý: nếu dùng cuộc đất này thì Tay Hổ hơi dài và Tay Long hơi ngắn THỦY CUỘC LONG - TỰ SINH HƯỚNG Huyệt thứ III của 6 huyệt thuộc Thủy cuộc long. Đây là phép biến cục, tá khố tiêu thủy, tự sinh hướng. Cục thế: Tả toàn long, thu hữu toàn thủy. Lập tọa Kiền hướng Tốn kiêm Tỵ ba phân. Lập tọa Hợi hướng Tỵ kiêm Tốn ba phân. Nước từ bên hữu đổ sang bên tả, lấy cung Tốn, cung Tỵ ngay vị trí chữ tuyệt khởi tràng sinh, nghĩa là tự mình hướng thượng khởi tràng sinh cho mình, đây gọi là tuyệt sứ phùng sinh (ngay cung tuyệt gặp tràng sinh). Trước phải thu Canh, Dậu là đế vượng thủy, Khôn Thân là lâm quan thủy, Đinh Mùi là quan đới thủy, Bính Ngọ là quý nhân thủy, rồi thu Tốn Tỵ tràng sinh thủy 9cung này là hướng thượng bản vị) vào minh đường, phép này gọi là tá khố tiêu nạp (mượn khố tiêu thủy khẩu) táng được hướng này phát rất mau và phát nhân đinh nhiều, phú quý rất lớn. CUỘC ĐẤT THỦY CUỘC LONG - TỰ VƯỢNG HƯỚNG (Thân, Tý, Thìn, Tam hợp thành thủy cuộc long) Thủy Tiêu Ất Thìn – Chính Mộ Khố Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì Tay Long hơi dài và Tay Hổ hơi ngắn. THỦY CUỘC LONG - TỰ VƯỢNG HƯỚNG Huyệt thứ IV, của 6 huyệt thuộc Thủy cuộc long. Đây là biến cục tá khố tiêu thủy, tự vượng hướng. Cục thế: Hữu toàn long khu tả toàn thủy. Lập tọa Canh, hướng Giáp kiêm Dần ba phân nghinh lộc. Lập tọa Dậu, hướng Mão kiêm Giáp ba phân tá lộc. Nước từ bên tả đổ sang bên hữu, lấy cung Giáp Mão ngay vào vị trí chữ tử hóa thành chữ vượng. Đây là tự mình lấy vượng hướng thượng. Nếu vượng ở cung Giáp Mão thì tràng sinh phải ở Kiền Hợi. Đây thu Kiền Hợi là tràng sinh thủy, Nhâm Tý là quý nhân thủy, Quý Sửu là quan đới thủy, Cấn Dần là lâm quan thủy, rồi đến Giáp Mão là đế vượng thủy (cung này là hướng thượng bản vị) vào minh đường rồi tiêu ra chữ Ất là mộ khố. Cứ tính như phép tá cục tiêu thủy này, thì vượng tá cục Ất Thìn phải là suy, vậy nên gọi là tá suy phương xuất thủy (mượn phương suy cho nước tiêu ra). Táng được hưởng này, phát phú rất mau, mà đinh tài quý gồm cả, tức là lối biến cục hóa tử vi vượng (hóa chữ tử làm chữ vượng). Như trên bốn tuyệt trong thủy cục long, phải tiêu thủy ra chính mộ khố mới được lập hướng, bốn hướng là chính sinh, chính vượng, tự sinh, tự vượng. Công thức này là tam hợp Thân, Tý, Thìn tức như Khôn Nhâm Ất lấy âm dương phối hợp thành cục, tá khố tiêu thủy. Như phải tiêu nạp đúng với công thức ở trên mới được lập hướng, ngoại trừ không được lập những hướng khác trên, nếu thấy thủy đã tiêu ra ất khố. CUỘC ĐẤT THỦY CUỘC LONG – CHÍNH MỘ HƯỚNG (Thân, Tý, Thìn Tam hợp thành Thủy cuộc long) Thủy Tiêu Ất Thìn Chính Mộ Khố Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì Tay Long hơi dài và Tay Hổ hơi ngắn. THỦY CUỘC LONG – CHÍNH MỘ HƯỚNG Huyệt thứ V của 6 huyệt thuộc Thủy cuộc long. Cách: Lộc tồn lưu tận bội kim ngư, chính mộ hướng. Cục thế: Tả toàn long thu hữu toàn thủy, nếu hữu toàn long thu tả toàn thủy. Lập tọa tận hướng ất kiêm thìn ba phân tá lộc. Nước bên tả đổ sang bên hữu, trước phải thu nước bên hữu là cung Kiền, cung Hợi lâm quan thủy, thứ đến thu nước cung Nhâm, cung Tý là đế vượng thủy, vào minh đường rồi thu nước bên tả là cung Khôn, cung Thân, thân là tràng sinh thủy, vào giao hợp trước minh đường, rồi vát ra chữ tuyệt là Tốn Tỵ, cho thủy khẩu tiêu đi. Bởi ngôi chữ tuyệt là vị trí sao lộc tồn, nước ở cung này chỉ nên tiêu đi không nên triều lại, nên dùng làm thủy khẩu rất tốt. Lập hướng này: thu cả nước ở ngôi tràng sinh và ngôi đế vượng đến minh đường, phép táng này đúng với câu: Ất hướng Tốn lưu thanh phú quý (hướng Ất thủy khẩu tiêu tốn rõ ràng giàu sang). Táng được hướng này thì con trai, con gái phát đồng đều, giàu sang, thịnh đạt. CUỘC ĐẤT THỦY CUỘC LONG – CHÍNH DƯỠNG HƯỚNG (Thân, Tý, Thìn Tam hợp thành Thủy cuộc long) Thủy Tiêu Ất Thìn Chính Mộ Khố Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì Tay Hổ hơi dài và Tay Long hơi ngắn. THỦY CUỘC LONG – CHÍNH DƯỠNG HƯỚNG Huyệt thứ VI của 6 huyệt thuộc Thủy cuộc long. Cách: Quý nhân lộc mã thượng ngu nhai chính dưỡng hướng. Cục thể: Tả toàn long thu hữu toàn thủy. Lập tọa quý hướng đinh kiêm ngọ ba phân nghinh lộc. Lập tọa Sửu hướng Mùi kiêm Đinh ba phân tá lộc. Nước bên hữu đổ sang bên tả, thu nước ở cung Khôn cung Thân là tràng sinh thủy, thứ đến thu nước ở cung Đinh cung Mùi là vị trí của ngôi dưỡng (bản vị hướng thượng) vào minh đường, quy về chữ tuyệt là Tốn Tỵ tức là thủy khẩu tiêu đi, bởi vị trí ngôi chữ tuyệt: là nên tiêu nước đi không nên thu nước lại. Lập hướng này con cháu được thịnh đạt sang giàu khoa giáp, văn chương. Nói về thủy cục long, nếu thấy nước tiêu về chữ tuyệt chỉ được hai phép: Một là chính mộ hướng, hai là chính dưỡng hướng, kỳ dư cấm không được lập hướng nào khác hơn hai hướng trên. Nói tóm lại thủy cục long có 6 hướng tốt là chính sinh, chính vượng, tự sinh, tự vượng, tự sinh, tự vượng, chính mộ và chính dưỡng. Những hướng sinh, hướng vượng thì thủy phải tiêu ra mộ khố, những hướng mộ hướng dưỡng thì thủy phải tiêu ra ngôi chữ tuyệt mới là hợp cách. CUỘC ĐẤT KIM CUỘC LONG – CHÍNH SINH HƯỚNG (Tỵ, Dậu, Sửu – Tam hợp Thành Kim Cuộc Long) Thủy Tiên Quý Sửu Chính Mộ Khố Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì Tay Hổ dài và Tay Long ngắn. KIM CUỘC LONG – CHÍNH SINH HƯỚNG Huyệt thứ 1 của 6 huyệt thuộc Kim cuộc long. Vượng khứ nghinh sinh, chính sinh hướng. Cục thể: Tả toànlong thu hữu toàn thủy. Lập tọa Kiền hương Tốn, kiêm Tỵ ba phân. Lập tọa Hợi hướng Tỵ, kiêm Tốn ba phân. Trước phải thu Canh Dậu để vượng thủy, từ vai sau bên hữu vào minh đường, thứ thu Khôn Thân lâm quan thủy, thứ nữa thu Đinh Mùi quan đới thủy, vào minh đường, rồi đến Bính Ngọ quý nhân thủy, Tốn Tỵ tràng sinh Tỵ thủy (cung này là hướng thượng bản vị) đem lại minh đường, vòng sang bên tả, tiêu ra chữ quý là mộ khố. Đây là phép tàng chính sinh hướng, nếu được hướng này, thì nhân đinh rất vượng, phú quý song toàn, bền lâu mãi mãi. CUỘC ĐẤT KIM CUỘC LONG – CHÍNH VƯỢNG HƯỚNG (Tỵ, Dậu, Sửu Tam hợp Thành Kim Cuộc Long) Thủy Tiêu Quý Sửu Chính Mộ Khố Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì Tay Long dài và Tay Hổ ngắn. KIM CUỘC LONG – CHÍNH VƯỢNG HƯỚNG Huyệt thứ II của 6 huyệt thuộc Kim cuộc long. Sinh lai hội vượng, chính vượng hướng. Cục thế: Hữu toàn long, thu tả toàn thủy Lập tọa Giáp, hướng Canh, kiêm Dậu ba phân, nghinh lộc. Lập tọa Mão, hướng Dậu, kiêm Canh ba phân, tá lộc. Trước phải thu nước bên tả, Tốn Tỵ tràng sinh thủy, Bính Ngọ quý nhân thủy, Đinh Mùi quan đới thủy, Khôn Thân lâm quan thủy, vào minh đường, rồi thu Canh Dậu đế vượng thủy (cung này là hướng thượng bản vị) vào minh đường, rồi vát thủy tiêu ra quý khố chảy đi. Phép táng này, chính vượng hướng, lại được long chân huyệt đích, thì phát tài, người thịnh của nhiều, phát đạt bền lâu. CUỘC ĐẤT KIM CUỘC LONG - TỰ SINH HƯỚNG (Tỵ, Dậu, Sửu tam hợp Thành Kim Cuộc long) Thủy tiêu Quý Sửu – Chính Mộ Khố Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì Tay Hổ hơi dài và Tay Long hơi ngắn. KIM CUỘC LONG - TỰ SINH HƯỚNG Huyệt thứ III của 6 huyệt thuộc Kim cuộc long Đây là phép biến cục, tá khố tiêu thủy, tự sinh hướng. Cục thế: tả toàn long thu hữu toàn thủy. Lập tọa Khôn, hướng Cấn, kiêm Dần ba phân. Lập tọa Thân, hướng Dần, kiêm Cấn ba phân. Nước từ bên hữu đổ sang bên tả, lấy cung Kiền, cung Hợi, ngay vị trí chữ tuyệt khởi tràng sinh, nghĩa là: Tự mình hướng thượng khởi tràng sinh cho mình, đây gọi là: Tuyệt sứ phùng sinh (ngay cung tuyệt gặp tràng sinh). Trước phải thu Bính Ngọ là đế vượng thủy, Tốn Tỵ là lâm quan thủy, Ất Thìn là quan đới thủy, Giáp Mão là quý nhân thủy, rồi thu Cấn Dần là tràng sinh thủy 9cung này là hướng thượng bản vị) vào minh đường. Táng được hướng này, phát rất mau, phát nhân đinh nhiều phú quý rất to lớn. CUỘC ĐẤT KIM CUỘC LONG TỰ VƯỢNG HƯỚNG (Tỵ, Dậu, Sửu Tam Hợp Thành Kim Cuộc Long) Thủy Tiêu Quý Sửu Chính Mộ Khố Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì Tay Long hơi dài và Tay Hổ hơi ngắn. KIM CUỘC LONG - TỰ VƯỢNG HƯỚNG Huyệt thứ IV của 6 huyệt thuộc Kim cuộc long. Đây là phép biến cục, tá khố tiêu thủy, tự vượng hướng. Cục thế: Hữu toàn long, thu tả toàn thủy. Lập tọa Bính, hướng Nhâm, kiêm Tý ba phân, nghinh lộc. Lập tọa Ngọ, hướng Tý, kiêm Nhâm ba phân, tá lộc. Nước từ bên tả đổ sang bên hữu, lấy cung Nhâm Tý ngay vào vị trí chữ tử, hóa thành chữ vượng. Đây là tự mình khởi lấy vượng hướng thượng Nếu vượng ở cung Nhâm Tý thì tràng sinh phải ở cung Khôn Thân, thu Khôn Thân là tràng sinh thủy. Canh Dậu là quý nhân thủy, Tân Tuất là quan đới thủy. Kiền, Hợi là lâm quan thủy, rồi đến Nhâm Tý là đế vượng thủy (cung này là hướng thượng bản vị) vào minh đường, rồi tiêu chữ quý là mộ khố, cứ tính như phép tả cục tiêu thủy này, thì vượng tá cục (Nhâm Tý) Quý Sửu phải là suy, vậy nên gọi là Tá suy phương xuất thủy, (mượn phương suy cho nước tiêu ra). Táng được hưởng này, phát phúc rất mau và đinh, tài quý gồm cả, tức là lối biến cục, hóa tử vi vượng (hóa chữ tử làm chữ vượng). Như trên bốn cục trong kim cục long, phải tiêu thủy ra chính mộ khố mới được lập hướng, bốn hướng là: Chính sinh, chính vượng, chính sinh tự vượng, công thức này là Tam hợp Tỵ Dậu Sửu, tức như Tốn, Canh, Quý lây âm dương hợp thanh cục. Đây tuy nhiên nói là biến cục, tá khố tiêu thủy, nhưng phải tiêu nạp (thu thủy và tiêu thủy) đúng với công thức của nó mới được lập hướng, ngoài trừ, không được lập những hướng khác với bốn công thức trên, nếu thấy thủy tiêu ra quý khố. CUỘC ĐẤT KIM CUỘC LONG – CHÍNH MỘ HƯỚNG (Tỵ, Dậu, Sửu, Tam Hợp Thành Kim Cuộc Long) Thủy Tiêu Quý Sửu Chính Mộ Khố Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì Tay Long hơi dài và Tay Hổ hơi ngắn. KIM CUỘC LONG – CHÍNH MỘ HƯỚNG Huyệt thứ V của 6 huyệt thuộc Kim cuộc long Cách: lộc tổ lưu tận bội kim ngư, chính mộ hướng Cục thế: Tả toàn long, thu hữu toàn thủy. Lập tọa Đinh, hướng Quý, kiêm tý ban phân, nghinh lộc Nước bên tả đổ sang bên hữu, trước phải thu nước bên hữu là cung Khôn Thân, tức làm quan thủy, thứ đến thu nước cung Canh, cung Dậu là đế vượng thủy, vào minh đường, rồi thu nước bên tả là cung Tốn, cung Tỵ tức tràng sinh thủy, vào giao bội rước minh đường, rồi vát ra ngôi chữ tuyệt là Cấn Dần, chỗ thủy khẩu tiêu đi. Bởi ngôi chữ tuyệt là vị trí sa lộc tồn, nước ở cung chỉ nên tiêu đi, không nên triều lại nên dùng làm thủy khẩu rất tốt. Lập hướng này, thu cả nước ở ngôi tràng sinh và ngôi đế vượng đến minh đường, phép táng này đúng với câu Quý quy Cấn thượng hiển văn chương (Hướng quý thủy khẩu tiêu chữ Cấn phát văn khoa hiển đạt). Táng được hướng này, thì con trai, con gái phát đồng đều, giàu sang thịnh đạt. CUỘC ĐẤT KIM CUỘC LONG – CHÍNH DƯỠNG HƯỚNG (Tỵ, Dậu, Sửu – Tam Hợp Thành Kim Cuộc Long) Thủy Tiêu Quý Sửu Chính Mộ Khố Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì Tay Hổ hơi dài và Tay Long hơi ngắn. KIM CUỘC LONG – CHÍNH DƯỠNG HƯỚNG Huyệt thứ VI của 6 huyệt thuộc Kim cuộc Long Cách: Quý nhân lộc mã thượng ngư nhau, chính dưỡng hướng. Cục thế: tả toàn long, thu hữu toàn thủy. Lập tọa tân hướng Ất, kiêm mão ba phân, nghinh lộc. Lập tọa Tuất, hướng Thìn, kiêm Ất ba phân, tá lộc. Nước bên hữu đổ sang bên tả, thu nước ở cung Canh cung Dậu, là đế vượng thủy, rồi thu nước ở cung Thân, cung Khôn là lâm quan thủy, cung Đinh, cung Mùi là quan đới thủy, cung Bính cung Ngọ là quý nhân thủy, cung Tốn cung Tỵ là tràng sinh thủy, cùng với nước ở cung Ất Thìn tức vị trí của ngôi dưỡng (bản vị hướng thượng) vào minh đường quy vào ngôi chữ tuyệt, tức là chữ Cấn, nó là thủy khẩu tiêu đi, bởi vì ngôi chữ tuyệt chỉ nên tiêu nước đi, không nên thu nước lại. Lập hướng này, con cháu được thịnh đạt, phát khoa giáp văn chương. Nói về kim cục long, nếu thấy nước tiêu về chữ tuyệt thì được lập hai phép. Một chính mộ hướng, một nữa là chính dưỡng hướng, kỳ dư cấm không được lập hướng nào khác hơn hai hướng trên. Nói tóm lại, kim cục long có sáu hướng tốt là: chính sinh, chính vượng, tự sinh, tự vượng, chính mộ, chính dưỡng. Những hướng mộ, hướng dưỡng thì thủy khẩu phải tiêu ra ngôi chữ tuyệt, những hướng sinh, hướng vượng, thì thủy khẩu phải tiêu ra mộ khố, mới là hợp cách. CUỘC ĐẤT MỘC CỤC LONG CHÍNH SINH HƯỚNG (Hợi, Mão, Mùi Tam Hợp Thành Mộc Cuộc Long) Thủy Tiêu Đinh Mùi Chính Mộ Khố Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì Tay Hổ dài và Tay Long ngắn MỘC CUỘC LONG – CHÍNH SINH HƯỚNG Huyệt thứ 1 của 6 huyệt thuộc Mộc cuộc long. Vượng khứ nghinh sinh, chính sinh hướng Cục thế: Tả toàn long, thu hữu toàn thủy. Lập tọa Tốn, hướng Kiền, kiêm Hợi ba phân. Lập tọa Tỵ, hướng Hợi, kiêm Kiền ba phân. Trước phải thu Giáp Mão để vượng thủy, từ sau vai bên hữu vào minh đường, thu Cấn Dần lâm quan thủy, thứ nữa thu Quý Sửu quan đới thủy vào minh đường rồi Nhâm Tý quý nhân thủy, Kiền Hợi tràng sinh thủy (cung này là hướng thượng bản vị) đem lại minh đường, vòng sang bên tả, tiêu ra chữ đinh là mộ khố. Đây là phép táng chính sinh hướng, nếu được hướng này thì nhân đinh rất vượng, phú quý song toàn, bền lâu mãi mãi. CUỘC ĐẤT MỘC CUỘC LONG – CHÍNH VƯỢNG HƯỚNG (Hợi, Mão, Mùi, Tam Hợp Thành Mộc Cuộc Long) Thủy Tiêu Đinh Mùi Chính Mộ Khố Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì Tay Long dài và Tay Hổ ngắn. MỘC CUỘC LONG – CHÍNH VƯỢNG HƯỚNG Huyệt thứ II của 6 huyệt thuộc Mộc Cuộc Long Sinh lai hội vượng, chính vượng hướng Cục thế: Hữu toàn long, thu tả toàn thủy Lập tọa Canh hướng Giáp, kiêm Dần ba phân nghinh lộc. Lập tọa Dần hướng Mão, kiêm Giáp ba phân, tá lộc. Trước phải thu bên tả Kiền Hợi tràng sinh thủy, Nhâm Tý quý nhân thủy, Quý Sửu quan đới thủy, Cấn Dần lâm quan thủy, vào minh đường, rồi thu Giáp Mão để vượng (cung này là hướng thượng bản vị) vào minh đường, rồi vát thủy tiêu ra đinh khố chảy đi. Phép táng này chính vượng hướng, lại được long chân huyệt đích, thì phát tài, người thịnh của nhiều, phát đạt bền lâu. CUỘC ĐẤT MỘC CUỘC LONG TỰ SINH HƯỚNG (Hợi, Mão, Mùi Tam Hợp Mộc Cuộc Long) Thủy Tiên Đinh Mùi Chính Mộ Khố Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì Tay Hổ hơi dài và Tay Long hơi ngắn. MỘC CUỘC LONG - TỰ SINH HƯỚNG Huyệt thứ III của 6 huyệt thuộc Mộc Cuộc Long. Đây là phép biến cục, tả khố tiêu thủy. Tự sinh hướng. Cục thế: Tả toàn long, thu hữu toàn thủy. Lập tọa Cấn, hướng Khôn, kiêm Thân ba phân. Lập tọa Dần, hướng Thân, kiêm Khôn ba phân. Nước từ bên hữu đổ sang bên tả, lấy cung Khôn, Thân ngay vị trí chữ tuyệt, khởi tràng sinh, nghĩa là tự mình hướng thượng khởi tràng sinh cho mình, đây gọi là tuyệt sứ phùng sinh (ngay cung tuyệt gặp tràng sinh). Trước phải thu Nhâm Tý là đế vượng thủy, Kiền Hợi là lâm quan thủy, Tân Tuất là quan đới thủy, Canh Dậu là quý nhân thủy, rồi thu Khôn Thân là tràng sinh thủy (cung này là hướng thượng bản vị) vào minh đường. Táng được hướng này phát rất mau, phát nhân đinh nhiều, phú quý rất lớn. CUỘC ĐẤT MỘC CUỘC LONG - TỰ VƯỢNG HƯỚNG (Hợi, Mão, Mùi: Tam hợp, Mộc Cuộc Long) Thủy Tiêu Đinh Mùi, Chính Mộ Khố Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì Tay Long hơi dài và Tay Hổ hơi ngắn. MỘC CUỘC LONG - TỰ VƯỚNG HƯỚNG Hỏa cuộc long tự vượng hướng này là huyệt thứ IV của 6 huyệt của Mộc Cuộc Long. Đây là phép biến cục, tá khố tiêu thủy, tự vượng hướng. Cục thế: hữu toàn long, thu tả toàn thủy. Lập tọa Nhâm hướng Bính, kiêm Ngọ ba phân nghinh lộc. Lập tọa Tý hướng Ngọ, kiêm Bính ba phân tá lộc. Nước từ bên tả đổ sang bên hữu, lấy cung Bính cung Ngọ ngay vào vị trí chữ tử, hóa thành chữ vượng, đây là tự mình khởi lấy vượng hướng thượng. Nếu vượng ở cung Bính Ngọ, thì tràng sinh ở cung Cấn Dần, đây thu Cấn Dần là tràng sinh thủy, Ất Thìn là quan đới thủy Tốn Tỵ là lâm quan thủy, rồi đến Bính Ngọ là Đế vượng thủy (cung này là hướng thượng bản vị) vào minh đường, rồi tiêu ra chữ Đinh là một khố, cứ tính như phép tá cục tiêu thủy này, thì vượng tá cục (Bính Ngọ) Đinh Mùi phải là suy, vậy nên gọi là: Tá suy phương xuất thủy (mượn phương suy cho phép tiêu ra). Táng được hướng này, phát phú rất mau, mà Đinh tài quý gồm cả, tức là lối biến cục, hóa tử vi vượng (hóa chữ tử làm chữ vượng). Như trên bốn cục trong mộc cung long phải tiêu thủy ra chính mộ khố mới được lập hướng, bốn nước là: chính sinh, chính vượng, tự sinh, tự vượng, công thức này là tam hợp Hợi Mão Mùi, tức như kiền Giáp Đinh, lấy âm dương phối hợp thành cục. Đây tuy nhiên nói là biến cục, tá khố tiêu thủy, nhưng phải tiêu nạp (thu thủy và tiêu thủy) đúng với công thức của nó mới được lập hướng, ngoại trừ không được lập những hướng khác với bốn công thức trên, nếu thấy thủy đã tiêu ra Đinh khố CUỘC ĐẤT MỘC CUỘC LONG – CHÍNH MỘ HƯỚNG (Hợi, Mão, Mùi: Tam hợp, Mộc Cục Long) Thủy Tiêu, Đinh Mùi, Chính Mộ Khố Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì Tay Long hơi dài và Tay Hổ hơi ngắn. MỘC CUỘC LONG – CHÍNH MỘ HƯỚNG Huyệt thứ V của 6 huyệt thuộc Mộc cuộc long. Cách: Lộc tồn lưu tận bội kim ngư, Chính mộ hướng Cục thế: Hữu toàn long, thu tả toàn thủy. Tả toàn long, thu hữu toàn thủy. Lập tọa Quý hướng Đinh, kiêm Mùi ba phân nghinh lộc. Lập tọa Sửu hướng Mùi, kiêm Đinh ba phân tá lộc. Nước từ bên tả đổ sang bên hữu, trước phải thu nước bên hữu là cung Cấn cung Dần lâm quan thủy, thứ đến thu nước cung Giáp, cung Mão là đế vượng thủy vào minh đường, rồi thu nước bên tả là cung Kiền cung Hợi là tràng sinh thủy, vào giao hợp trước minh đường rồi vát ra ngôi chữ tuyệt là Khôn Thân, cho thủy khẩu tiêu đi. Bởi ngôi chữ tuyệt là vị trí sao lộc tồn, nước ở cung này chỉ nên tiêu đi, không nên triều lại, nên dùng làm thủy khẩu rất tốt. Lập hướng này, thu cả nước ở ngôi tràng sinh và ngôi đế vượng đến minh đường, phép táng này đúng với câu: Đinh Khôn chung thị vạn tự trang (hướng Đinh thủy khẩu tiêu chữ Khôn, phát cự phú, của chất đầy muôn kho, ngàn vựa). Táng được hướng này, thì con trai, con gái phát đồng đều, giàu sang thịnh đạt. CUỘC ĐẤT MỘC CUỘC LONG CHÍN DƯỠNG HƯỚNG (Hợi, Mão, Mùi, Tam Hợp Thành Mộc Cuộc Long) Thủy Tiêu Đinh Mùi Chính Mộ Khố Lưu ý: Nếu dùng cuộc đất này thì Tay Hổ hơi dài và Tay Long hơi ngắn. MỘC CUỘC LONG – CHÍNH DƯỠNG HƯỚNG Huyệt thứ VI của 6 huyệt thuộc Mộc cuộc long. Cách: Quý nhân lộc mã thượng như nhau. Chính dưỡng hướng. Cục thế: Tả toàn long, thu hữu toàn thủy. Lập tọa Ất, hướng Tốn, kiêm Dậu ba phân nghinh lộc. Lập tọa Thìn, hướng Tuất, kiêm Tốn ba phân tá lộc. Nước bên hữu đổ sang bên tả, thu nước ở cung Giáp cung Mão là đế vượng thủy rồi thu nước ở cung Cấn cung Dần là lâm quan thủy, cung Quý cung Sửu là quan đới thủy, cung Nhâm cung Tý là quý nhân thủy, cung Kiền cung Hợi là tràng sinh thủy, cùng với nước ở cung Tân cung Tuất là vị trí của ngôi dưỡng (bản vị hướng thượng) vào minh đường quy vào ngôi chữ tuyệt là chữ Khôn tức là thủy khẩu tiêu đi, bởi vì ngôi chữ tuyệt chỉ nên tiêu nước đi, không nên thu nước lại. Lập hướng này con cháu sẽ được thịnh đạt, phát khoa giáp văn chương. Nói về mộc cục long, nếu thấy nước tiêu về chữ tuyệt chỉ được lập hai phép: Một là chính mộ hướng, một là chính dưỡng hướng, kỳ dư: Cấn không được lập hướng nào khác hơn hai hướng trên. Nói tóm lại một cục long có 6 hướng tốt, là chính sinh, chính vượng, tự sinh, tự vượng, chính mộ, chính dưỡng. Những hướng mộ hướng dưỡng thì thủy phải tiêu ra ngôi chữ tuyệt. Những hướng sinh hướng vượng thì thủy phải tiêu ra mộ khố, mới là hợp cách. Đón đọc bộ trường thiên tiểu thuyết lịch sử nói về cuộc mưu đồ tái dựng nước của tổ tiên ta sau hơn nghìn năm Bắc thuộc: ANH HÙNG TIÊU SƠN Của Yên tử cư sĩ Trần Đại Sỹ Mỗi nhà phải có một bộ Anh hùng Tiên Sơn để biết: - Cuộc khởi binh của bà Triệu, làm người Ngô kinh hồn động phách. - Cuộc khởi binh của Bố cát đại vương. Ngài có đức gì, khiến dân chúng tôn làm cha (bố) mẹ (cái)? - Hành trang các vị Bồ Tát Bố Đại (Phật Di Lặc) Vô Ngại, Phụng Định, Duy Giám, La Quý An, Vạn Hạnh, Sùng Phạm, Huệ Sinh. - Đất Việt là nơi địa linh. Thế đất Tiêu Sơn kết phát, nhà Lý làm vua trên hai trăm năm. Hai trận Bạch Đằng của vua Ngô, vua Lê, cho đến nay còn dư oai - Lý Công Uẩn, từ một người chăn trâu cho chùa. Sau dựng lên triều Lý, lấy nhân đức trị dân. - Võ học, y học thế kỷ thứ mười, mười một của dân tộc Việt. NHÀ XUẤT BẢN XUÂN THU
TẬP ĐỊA LÝ TẢ AO BÍ THƯ ĐẠI TOÀN của Cao Trung
Quý vị cầm nơi tay đây là tập Địa Lý Gia Truyền Bí Thư Đại Toàn - tập này là tập thứ nhất trong tài liệu gia truyền của giòng họ Tả Ao mà tên tổng hợp của nó là Tả Ao Địa Lý Toàn Thư.
Thưa quý vị. Tài liệu quý giá nhất về khoa Địa Lý của người Việt Nam là Tả Ao Địa Lý Toàn Thư đã có trên 400 năm nay vẫn được các cụ giữ kín dùng làm gia bảo riêng cho giòng họ nhà mình. Làng Địa Lý Việt Nam ở ngoài Bắc di cư vào Nam năm 1954, không có quý vị nào mang theo được, dù là một phần, tài liệu quý giá này. Sau nhiều năm tìm kiếm, may thay lại kiếm được nó; không phải là do các cụ mang vào kỳ di cư 1954, mà là do cụ Huyện Mười ở Tăng Nhân Phú có từ năm 1914, khi gia đình cụ di cư vào Nam thời đó.
Dĩ nhiên làng Địa Lý lại xin sao, và cụ Huyện Mười cũng rộng lượng cho phép. Do đó mỗi thầy Địa Lý di cư đều có một bản. Cao Trung tôi, may thay cũng được dự phần. Các vị Địa Lý Gia khác khi có sách này thì thường cất vào tủ và lâu lâu giở ra xem qua rồi lại cất đi.
Riêng chúng tôi, tài không có bao nhiêu, nhưng mộng lại quá lớn. Chúng tôi quyết dịch và giải thích bộ sách này để dành lại cho hậu thế một tài liệu quý báu đang sắp bị thất truyền. Trên 10 năm làm việc không ngừng, tham khảo với hàng trăm cụ Địa Lý dù quen hay lạ, nếu cụ nào cho phép là tôi tới và gặp. Sách Địa Lý nào cũng mua, sao và đọc. Nhờ rộng đường tham khảo nên năm 1975 mới xong. Mới vừa hoàn tất xong phần dịch thuật chưa kịp san định, giải thích thêm, hoặc phân chia tiết mục, thì phải di cư.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 tôi được biết trước, được xuất ngoại, có một tiếng đồng hồ nên bỏ hết cả tài sản lại nhưng cố mang theo bản thảo Bộ Tả Ao Địa Lý Toàn Thư, một đứa con tinh thần, một hoài bão vĩ đại, một giấc mộng lớn mà tôi đã cưu mang, chăm sóc ngoài 10 năm cũng chỉ mong bộ sách này được để lại cho đời sau khỏi thất truyền mà thôi. Ước mong giản dị đó đã trải trên 10 năm ở Việt Nam và tiếp theo là trên 10 năm nữa ở Hoa Kỳ.
Giờ đây tập thứ nhất của Tả Ao Địa Lý Toàn Thư mới đến tay quý vị. Thật quá trễ nhưng vì khoa Địa Lý đã khó mà chúng tôi lại muốn nó hết sức toàn vẹn trước khi đem in.
Tập thứ nhất này lấy tên là: Địa Lý Tả Ao Bí Thư Đại Toàn
Và tập kế tiếp là: Địa Lý Tả Ao Vi Sư Pháp
Sau đó còn độ 4 – 5 tập nữa mới hoàn tất toàn bộ Địa Lý của dòng họ Tả Ao.
Thưa quý vị, bộ sách Địa Lý này có 3 phụ lục thật đặc sắc. Một phụ lục lò Bát Đại Hoàng Tuyền và phụ lục thứ hai là Long Thượng Bát Sát và phụ lục thứ ba là Thủy Pháp.
Ở trong tài liệu của cụ Tả Ao dịch mới đây cũng nói đến nó, mà nói một cách hết sức mơ hồ thật ra nó là phần quan trọng nhất của khoa Địa Lý. Chúng tôi biết đến 9 phần 10 Địa Lý Gia không nắm vững 3 phần quan trọng này. Do đó chúng tôi phải cố gắng sắp xếp lại cho thật minh bạch ba phần này trước khi các cụ học Địa Lý phần khẩu thụ tâm truyền mới nắm vững nó mà ngày nay trên bộ sách này nhờ ba phụ lục đặc biệt này quý vị nắm vững và biết thật chính xác nó.
Phần Thủy Pháp trong quyển này gồm 48 trang đã là ngắn gọn nhưng chúng tôi lại đã thu gọn vào một Biểu Nhất Lãm tô màu và bọc plastic - Biểu Nhất Lãm Thủy Pháp này làm bằng tay có 2 mặt - mặt trước là Biểu Nhất Lãm Thủy Pháp và mặt sau là La Kinh có chú thêm chữ Việt thường dùng trong khoa Địa lý. Chỉ cần đặt một cái kim chỉ nam vào giữa là ta đã có La Kinh đầy đủ và đặt kim chỉ nam vào giữa mặt trước ta đã có Biểu Nhất Lãm Thủy Pháp mà có sách Tàu phải viết đến 500 trang mới hết.
Mong rằng với sự cố gắng trình bày tập sách này sẽ giúp quý vị nhiều về khoa Địa lý.
CAO TRUNG
CHƯƠNG I
TẦM LONG TRÓC MẠCH
A. HƯỚNG DẪN PHẦN TẦM LONG TRÓC MẠCH
Tầm long của đất kết gọi là Tầm Long Tróc Mạch. Từ gốc là tổ sơn long chia ra đi mọi nơi làm đất kết. Từ khởi thủy của long mạch là tổ sơn đến kết cuộc là đất kết. Khúc giữa là hành long.
Một thế long đi khởi từ tổ sơn, hành long có khi gần và có khi xa cả trăm, ngàn dặm mới đến đất kết. Long đi phải có nước đi theo và khi vào kết thì nước đó lại đổ vào minh đường.
Tổ sơn có nhiều hình dạng, nhìn tổ sơn có thể biết sau long đó sẽ hùng dũng hay suy nhược. Còn hành long thì chính long là cán long (cành lớn) và bành long là chi long (cành nhỏ).
Long đi có thể thuận theo chiều nước chảy, có thể nghịch lại chiều nước chảy, và cũng có thể quay ngang xa chiều nước chảy. Long đi thuận theo nước chảy gọi thuận long. Long đi ngược chiều nước chảy gọi là hồi long và đi ngang chiều nước chảy gọi là hoành long.
B. TẦM LONG TRÓC MẠCH
Câu 1: Tiên vấn tổ tôn, tổ giả, đột khởi nhất sơn vi tổ, phân hành thiên chi vạn điệp, như Côn Lôn sơn đột khởi vi tổ sơn, thị dã.
Tôn giả, ly tổ biệt khởi nhất sơn vi tôn, phân hành đông ngung tay lũng như Vân Lĩnh, Đan sơn giáng nam thị dã
Trước tiên phải hỏi đến tổ tôn - Tổ là một núi đột khởi lên, rồi chia ra làm ngàn vạn chi nhánh – Như Côn Lôn sơn một mình cao vọt lên là tổ sơn vậy. Tôn là tự rời khỏi tổ sơn rồi cũng lại khởi lên một núi riêng biệt, phân hoành ra phương đông Ngung, tây Lũng xuống Nam phương Vân Lĩnh sơn, Đan sơn vậy.
Câu 2: Tổ hữu thủy tổ, thiếu tổ, tiên nhận thủy tổ, hà hữu hình tượng.
Tổ có thủy tổ và thiếu tổ. Trước hết phải nhận rõ hình tượng gì của nó.
Câu 3: Hình hữu hoa cái, tam thai, tượng hữu lâu đài, bảo điện, hoặc song phong tinh khởi, hoặc hữu mã yên cáo trục, trước hình kỳ lân, phương hoàng sơn thế, thượng tự, hạ tự, vương tự, nhân tự, thiên tự, ngũ phẩm bất đồng – Kim tinh, mộc tinh, hỏa tinh, thổ tinh, ngũ hành hữu dị, hoặc như vân lôi nhi khởi, hoặc như qua đằng nhi lai, hoặc như thương như khố, hoặc như cổ như kỳ. Nhược kiến tổ tông tủng bạt, nhất định tử tôn tranh hùng.
Về hình thì có Hoa Cái – Tam Thai. Về tượng thì lâu đài bảo điện. Cũng có khi hai ngọn vươn lên giống như cánh chim. Hình có thể giống như yên ngựa cáo trục, hình kỳ lân, phụng hoàng hoặc hình chữ thượng, chữ hạ, chữ vương, chữ nhân, chữ thiên năm phẩm khác nhau.
Kim tinh, hỏa tinh, mộc tinh, thổ tinh... năm hành phân biệt. Hoặc như mây sấm dâng lên, hoặc như giây dưa man bò lại, hoặc như kho tàng hoặc như cờ trống.
Nếu thấy tổ tôn cao vút chắc chắn con cháu sẽ hùng cường.
Câu 4: Tổ hữu vạn hình yếu dương suy lực, hồi nhi luận, tiên quan kỳ tổ tông khởi, thứ kỳ chi cán; cán giả, chính mạch chi sở hành, chi giả bàng chi, chí sở khứ, cán giả, tùy tiết nhi phát, chi giả nhất đại nhi suy, tiên luận sơn, hậu luận thủy.
Vì tổ sơn có hàng vạn hình trạng, cần phải dùng mục lực mà suy luận. Trước hết hãy xem tổ tông rồi xem đến chi cán – Cán (thân, cây) là đường đi của chính mạch. Chi (cành cây) là lối đi của hàng chi.
Đại để về cán thì mỗi đốt một đời – Còn chi thì chỉ có một đời phát rồi suy.
Trước hết bàn đến sơn, sau mới bàn đến thủy.
Câu 5: Hoặc trường giang, trường khê hoặc đại hồ đại trì, duyên khê nhi chí, phát trì nhi lai, trường thanh khuất khúc vi quý, khí thiển bạc ư trọc, trực lưu vi tiện cách.
Hoặc sông dài suối dài, hoặc hồ rộng ao rộng. Mạch theo ven sông ven suối đến. Khởi từ hồ ao lại. Nước trong trẻo đi khuất khúc là quý khí, còn nước u trọc, chạy thẳng là tiện cách.
Câu 6: Đăng sơn tầm tổ tông, đáo xứ vấn thủy khẩu.
Lên núi để tìm tổ tông, đến huyệt trường phải kiếm thủy khẩu.
Câu 7: Cứ tổ tông nhi mạch tầm lạc, vấn thủy khẩu nhi định lai long - Thủy khẩu phóng Nam, mạch tầm Bắc. Thủy khẩu quy Đông mạch vọng Tây.
Cứ theo tổ tông tìm mạch lạc, hỏi thủy khẩu mà định lai long, Thủy khẩu phóng Nam thì long mạch từ Bắc đến. Thủy ra ở phía Đông thì Long mạch kiếm tìm ở phía Tây.
Câu 8: Dục tường quan giả, tiên khán thủy, hậu khán sơn.
- Dục cấp quan giả, vị khán sơn, tiên khán thủy.
Muốn cho xem tường tận, thì trước phải xem thủy, sau mới xem đến sơn. Còn muốn xem vội thì ngược lại, ta xem sơn trước, sau mới xem đến thủy.
Câu 9: Mạch hữu liên sơn nhi hạ, hữu độ giang nhi lai, hoặc mã đề nhi hành, hoặc bàng hồng nhi khởi.
Mạch có khi đi liền liền, từ núi cao chạy xuống lại có khi mạch qua sông mà lại, cũng có khi mạch đi lỗ chỗ như vết chân ngựa, hoặc có lúc lặn qua ruộng rồi mới nổi lên.
Câu 10: Thiết thiết tường kỳ bát tự thủy phân, khẩu hiện kỳ lưỡng chi, sơn dẫn hữu thuận thế, nghịch thế, hữu hồi long, hoành long.
Nhưng trước hết phải tìm long xuất tổ đi ra phải có “bát tự thủy phân” (2 bên có 2 giòng nước). Long đi có thể đi thuận theo dòng nước, từ ngọn nước đi xuôi (thuận long) và cũng có thể đi nghịch với chiều xuôi của dòng nước (nghịch long - hồi long), hoặc bỏ dòng nước mà quay ngang đi xa xa (hoành long).
Câu 11: Thuận giả, cầu kỳ nghịch, nghịch giả cầu kỳ thuận, thuận nghịch cầu kỳ chứng tá, hồi hoành cầu kỳ thác lạc.
Long đi thuận phải tìm nghịch, long đi nghịch phải tìm thuận - Thuận nghịch phải tìm chứng tá - Muốn biết hồi hoành ta tìm thác lạc.
Câu 12: Địa thế bản tự Bắc chí Nam, kiến kỳ nghịch hành vi quý
Trên nguyên tắc, long đi thuận là từ Bắc xuống Nam (cũng có khi từ Tây Bắc xuống Đông Nam) - Nếu long đi nghịch lại “thế thuận” của long quý.
Câu 13: Thủy thế bản Đông quy, bối tây kiến kỳ khúc khuất vi kỳ.
Cũng trên nguyên tắc thì thủy chạy từ Tây sang Đông, (ở Trung Quốc) cũng có khi từ Tây Bắc xuống Đông Nam (ở Việt Nam) nếu sau lưng ở phía Tây mà thấy nước chảy khuất khúc là nước hạ (thủy tốt).
Câu 14: Đại tiểu nhất đốn khởi thành quách vi đại địa. Tiểu hình thế bạc, đơn vị tiểu địa
Lớn nhỏ núi cũng chỉ khi đốn khi khởi, nhưng nếu có thành quách bao vây thì lại đại địa. Còn nếu thấy núi nhỏ bé, thế đơn côi bạc mỏng là tiểu địa.
Câu 15: Liên sơn tầm kỳ phiên thân.
Hạ sa quan kỳ hồi đầu
Nếu thấy dãy núi liền liền ta tìm chỗ nó trở mình.
Nếu thấy núi soải xuống thấp ta xem chỗ nó quay đầu.
Câu 16: Đại địa giả, tầm yêu, lý, hạc.
Tiểu địa giả, tầm đầu khí thụ.
Nếu là đại địa ta tìm chỗ huyệt tọa lạc trên lưng.
Nếu là tiểu địa ta tìm chỗ thụ khí ở đầu.
Câu 17: Tam chi tề hành đoản giả vi chân
Lưỡng mạch tịnh hành, nghịch giả vi quý.
Nếu thấy ba chi cùng đi thì chi nào ngắn nhất là thật. Nếu thấy hai mạch cùng đi, thì mạch nào quay ngược lại là quý.
Câu 18: Thuận giả, tầm kỳ chính mạch
Kỵ giả tầm kỳ tích
Thế long thuận ta tìm chính mạch.
Thế kỵ ta tìm sống lưng.
Câu 19: Uyển chuyển giả, tầm trực
Chân ngạnh giả, vật thứ
Mạch đi uyển chuyển ta tìm chỗ ngay ngắn.
Mạch đi thô ngạnh ta không dừng.
Câu 20: Mạch hành như qua đằng, đa hữu mạch.
Mạch đi như dây dưa (sinh động khi quay sang phải khi quay sang trái) là có nhiều chỗ đi đến đất kết.
Câu 21: Như thảo vĩ thiếu chân, bác long hoán cốt tầm lão long sinh nộn.
Mạch đi lờ mờ như vệt đuôi rắn luồn trong cỏ là hình tích long đang “bác long hoán cốt” (chuyển từ hùng dũng sang nhu hòa) ta tìm xem lão long sinh ra long trẻ, long non tơ (rất tốt).
Câu 22: Nhược kiến nhất trùng bảo khỏe, nhất trùng khai, đích hữu công hầu tại thử gian.
Nhất sơn loạn bảo, nhất sơn cố, đích hữu công khanh cư thử trú.
Nếu thấy thế núi:
- Một lần bao bọc, một lần mở ra là đích thực có đất công hầu tại chỗ này.
- Lại thấy một núi vòng ôm, một núi ngoảnh lại cũng là đích thực có đất rộng công khanh ở nơi này.
Câu 23: Bình điền bình địa khởi sơn lôi, sơn túc hữu huyệt tại thử gian.
Bình điền bình địa khởi thạch đa, đa sa hữu huyệt đa cát khánh.
Nơi bình điền bình địa mà thấy có núi cao nổi lên thì chân núi hay có huyệt. Cũng nơi bình điền bình địa mà thấy nổi lên cát đá, thì hay có huyệt tốt.
Câu 24: Chúng sơn cao tầm đê
Chúng sơn đê tầm cao.
Chung quanh nhiều núi cao ta tìm huyệt ở chỗ thấp.
Chung quanh đều thấp ta tìm huyệt ở chỗ cao.
Câu 25: Thập trường nhất đoản giả vi chân.
Thập đoản nhất trường giả vi chủ.
Mười cái dài có một cái ngắn thì cái ngắn là thật.
Mười cái ngắn có một cái dài thì cái dài làm chủ.
Câu 26: Bình địa tầm hạc tất, phong yêu, đại phụ quan toán sà hôi.
Nơi bình địa ta tìm chỗ gối hạc lưng ong, nơi gò lớn ta tìm vết mạch nổi lên như rắn bò trên cỏ.
Câu 27: Duyên khúc mạch nhận kỳ châu.
Chân mạch tầm kỳ khúc.
Mạch quanh co ta tìm chỗ thực.
Mạch thực ta tìm chỗ quanh co.
Câu 28: Tầm địa chi pháp, tiên vấn tổ tông, khước tòng chi mạch, khán hành tung tích chân long tận xứ, kham vi dụng đích. Hậu long tiên, mạc kiến trùng trùng đốn khởi, tiền nghênh tống, hậu nghinh, phong bất xuy, mạch bất đoạn, chúng thủy giao hợp, nội vi thành, ngoại vi quách, thủy khẩu quan lan - Thử đại địa giả.
Phàm tìm đất trước hết hỏi tổ tông, rồi lại từ đó xem các chi nhánh. Coi xem tung tích chân long đi đến chỗ nào là cùng xứ, đáng dùng được.
Như phía hậu long, thấy có màn trướng trùng trùng đốn khởi - Đằng trước có đón, đằng sau có đưa - Lại có chỗ gió không thổi suốt tới (tàng phong mới tụ khí) – và mạch không bị đứt đoạn - lại thêm có nhiều thủy giao hội – mà bên trong có thành, bên ngoài có quách - lại thêm có thủy khẩu rành mạch. Đấy chính là đại địa vận vậy.
Câu 29: Nhược kiến nhất chi sơn, nhất phái thủy, đơn hổ, đơn long, đơn sơn dẫn, đơn thủy sở tòng, tiểu địa giả.
Tầm long bất dị, điểm huyệt vưu nan.
Còn thấy có một chi sơn, một phái thủy, một đơn long, một đơn hổ, một núi hướng dẫn, một nước chảy theo, chỉ là tiểu địa thôi.
Tầm long không dễ, mà điểm huyệt càng khó vậy.
CÁC KIỂU ĐẤT QUÝ
THÁI CỰC CHI ĐỒ
Đệ nhất cách
HỮU ĐỆ NHẤT CÁCH
Thiền thiều mạch khởi tố phương la
Nhập não tu cầu lưỡng thủy lai
Hậu hợp đường tiền tiên tối hảo
Tự nhiên phú quý đích vô sai.
CÁCH THỨ NHẤT
Đùn đùn mạch tự tổ sơn lai.
Đến huyệt hai dòng nước khép đai
Thủy hậu hợp tiền, hồ nguyệt ánh.
Giàu sang đoán trước tất không sai.
CHƯƠNG II
ĐIỂM HUYỆT
A. HƯỚNG DẪN PHẦN ĐIỂM HUYỆT
Điểm huyệt là phép tìm ra chỗ đúng của huyệt trường. Cũng theo phép quân bình âm dương, cao thấp mà điểm nơi huyệt trường có hình: Oa hoặc Kiềm hoặc Nhũ hoặc Đột. Thường mạch nơi sơn cước ta dùng Oa và Kiềm, mạch nơi bình dương (đất bằng) ta dùng Nhũ, Đột.
Mạch sơn cước chỗ đầu núi cúi xuống gặp nước hay gặp đất bằng mà kết thì hay có hình oa hay hình kiềm. Còn đồng bằng mà nổi lên kết thì hay có nhũ và đột. Đột là cao lên như cái gò nhỏ, còn nhũ là cao lên và dài như cái vú quả mướp.
Điểm huyệt ở huyệt hình Kim, khác điểm ở hình Mộc, khác hình Thủy, khác hình Hỏa, khác hình Thổ. Ngoài khi điểm huyệt cũng nên chú trọng đến những ngấn nước ở hai bên huyệt ta gọi là hà tu thủy. Ta cũng cần chú trọng đến những bông cỏ xanh tươi hoặc những mô cao thấp một chút. Huyệt điểm cao quá thì sát, thấp quá thì yếu. Ngoài ra, tay long, tay hổ dài ngắn cũng ảnh hưởng đến phép điểm huyệt, án cao, thấp cũng thế.
B. ĐIỂM HUYỆT
Câu 1: Sơn cốc tựu kỳ oa túc
Bình dương tựu kỳ đột lĩnh.
Nơi sơn cốc huyệt ở noi oa thấp.
Vũng bình dương tuyệt ở chỗ đột kết.
Luận câu 1:
Sơn cao úy phong xuy, thực lăng cố cổ tầm oa xứ, sơn túc điểm chi, xứ phong bất xuy giả. Tha sơn cao tụ khí thái khí giả, như nhân chi nguyên khí, do ngạnh tác bất chung đa, tắc âm nhu nan tầm oa xứ, cập sơn túc sử khí chung bất phong xuy giả, - bình dương đa bạc địa, khí tụ ư cao hậu đột lĩnh chi xứ, cố tầm đột táng sử chi, khí bất bạc giả.
Nơi núi cao ta sợ gió thổi nên phải tìm chỗ vững thấy (oa) nơi chân núi mà điểm, khiến cho gió không thổi tới được.
Bởi núi cao mà tụ khí thì khí quá mạnh, khí ở đây như nguyên khí của người nên chỗ cương ngạnh (chỗ cao) có gió thổi thì khí không tụ, ta phải tìm chỗ ôn nhu ở chỗ khai oa ở chân núi để cho khí chung tụ (không bị gió thổi tới).
Còn nơi bình dương khí bạc, ta lại phải tìm chỗ khí là tránh chỗ khí đơn bạc.
Câu 2: Chứng tá vô như vượng tướng.
Cao đê bất thất tụ chung.
Nhiều chứng tá không bằng chứng tá vượng tướng.
Đất cao thấp, không thể để mất chỗ tụ chung.
Luận câu 2:
Phàm huyệt tả hữu thượng hạ, chứng tá quân bình, thế đại nan y thừa kỳ vượng tướng. Mạch thừa kỳ Bính Tý, Canh Tý chi loại, nhi tỵ cô hư chi khí. Hoặc cao hoặc đê, nan y giả dã, tất thừa kỳ chung tụ chi khí, nhi thiên chi chung tụ giả - viên hậu phì nhũ, thổ bao chung tú, thảo mộc thanh tú dị giả. Nhược chung tụ câu đại nan cứ giã. Thượng lập chuẩn tiêu ư mạch ưng đáo xứ khởi huyệt xứ, hạ lập chuẩn tiêu ư nậu tận, thủy hợp lưu xứ.
Thượng khởi hộ nhi hạ, hạ khởi bộ nhi thượng, phàm bộ chi xích thốn, hợp đoản thiểu.
Hạ kế: Kiên, Trừ, Mãn, Bình, Định, Chấp, Phá, Nguy, Thành, Thâu, Khai, Bế.
Thượng kế: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Canh, Tân, Nhâm, Quý.
Nhi trực ngộ xuất xứ
a. Hạ đắc: Bình, Định, Thành, Khai.
b. Thượng đắc: Giáp, Ất, Canh, Tân
Tiết điểm chi
Nhược huyệt như đích hữu chứng tá, an thập đạo táng.
a. Ngộ Kiến, Phá, Trừ, Mậu, Kỷ, Quý: Tiên sát tam nhân, hậu phát.
b. Ngộ Chấp, Bế, Ất, Đinh - Bất phát, hưu kiến đại tai.
c. Ngộ Mãn, Thâu, Bình, Chi.
Phàm huyệt tả hữu trên dưới có chứng tá, quân bình thế rộng lớn, khó mà căn cứ, thì ta phải thừa mạch Vượng, Tướng, ví dụ như mạch nên thừa Bính Tý (nếu là Nhâm Long) Canh Tý (nếu là Tý Long) và tránh khí Cô Hư (Giáp Tý, Mậu Tý, Nhâm Tý).
Còn mạch cao thấp khó mà căn cứ nên phải thừa vào chỗ Khí chung tụ để táng huyệt. Chung tụ là chỗ viên hậu, phì nhu, có sắc thổ tốt đẹp, cỏ cây xanh tươi đó là đất lạ.
Nếu chỗ chung tụ mà rộng thì cũng khó mà căn cứ được, ta lại phải lập tiêu chuẩn.
Lập một tiêu chuẩn ở chỗ khởi huyệt (bên trên).
Lập một tiêu chuẩn ở chỗ khởi lưu (bên dưới). Rồi đi từ phía trên đi xuống, phía dưới đi lên. (Bằng cỡ chân bước ngắn, dãy đều nhau).
Khi bước từ dưới lên đếm (tuần tự đọc): Kiên - Trừ - Mãn – Bình - Định - Chấp – Phá – Nguy – Thành – Thâu – Khai - Bế.
Còn bước từ trên xuống ta đọc: Giáp - Ất – Bính – Đinh – Canh – Tân – Nhâm – Quý.
Mỗi bước một chữ
Khi trên dưới gặp nhau mà:
a. Phía dưới đi lên gặp chữ Bính – Đinh – Thành khai.
b. Phía trên đi xuống gặp chữ Giáp - Ất – Canh – Tân.
Tức là điểm đúng huyệt rồi đó
Còn như huyệt có đủ chứng tá phân minh thì ta chăng dây hình chữ thập (một dây chiều trước sau, và một dây chiều phải trái) để làm đích mà táng.
Lúc táng mà được Kiên, Phá, Trừ, Mậu, Kỷ, Quý thì trước phải bị sát 3 người sau mới phát.
Còn gặp được Chấp, Bế, Ất, Đinh thì không có phát và gặp tai họa dữ dội.
Còn gặp ngay Mãn, Thâu thì bình thường.
Câu 3: Mạch thừa tả hữu, bất câu tả hữu
Địa hữu minh ám, tu biện minh ám.
Mạch nhận tả hữu mà không câu nệ tả hữu.
Đất có minh ám, nên biện biệt minh ám.
Luận câu 3:
Kỳ pháp, mạch tòng tả lai, khí chung vu hữu. Mạch tòng hữu lai, khí chung vô tả. Diệc nhiên, địa nhất minh, nhất ám, nhất hư, nhất thực.
a. Minh giả: mạch thùy giáng khai minh, thủy tiểu tiểu vi mang dã.
b. Ám giả: chúng tương hành
c. Hư giả: nhuyễn nhược bạc dã.
d. Thực giả: viên vụng, phi hậu tú khí dã
Tại nơi điểm huyệt, nếu thấy mạch từ tả đến (nhiều khi tả cao, hữu thấp) thì khí chếch sang bên hữu (nên điểm huyệt sang bên phải).
Và nếu thấy mạch từ hữu sang tả (khi hữu cao tả thấp) thì khí tụ chếch sang bên tả (nên điểm huyệt sang bên trái).
Cũng tại nơi điểm huyệt, nếu thấy đất một bên minh, một bên ám, hoặc một bên hư một bên thực, cũng phải biết mà liệu điểm huyệt thì mới trúng nơi khí chung tụ.
a. Minh là mạch rủ xuống, trông thấy rõ.
b. Ám thì lờ mờ khó nhận.
c. Hư là mềm yếu mỏng manh.
d. Thực là quầng tròn và đầy đặn.
Vì vậy nếu thấy đất Minh thì dễ, còn đất Ám, ta phải coi thêm kỹ các chứng ứng như: Long, Hổ, Ám v.v... Còn đất Thực thì ta chọn chỗ thực mà bỏ chỗ hư - Bởi hư thì khí bạc mà thực thì mới có tú khí.
Câu 4: Cấp lai hoãn thụ, Hoãn lai cấp thụ
Âm lai dương thụ, Dương lai âm thụ
Mạch cấp lại thì chỗ Hoãn là kết. Hoãn lại thì chỗ cấp là kết.
Mạch Âm lại thì chỗ Dương là kết và mạch Dương lại thì chỗ Âm là kết.
Luận câu 4:
Địa hữu hoãn hữu cấp, như nhân hữu nhược hữu cường. Cấp giả, cao đại, huyệt tại Kiềm Nhũ. Hoãn giả vi tiểu, đê bạc.
Phàm lai long nhị tam tiết giai hùng, Cấp tựu kỳ Oa Kiềm, sơn túc chi xứ điểm chi.
Sơn cao vi âm, đê giả vi dương. Quần sơn giai cao, tầm kỳ đê xứ nhi điểm.
Chúng sơn giai đê, tầm kỳ cao xứ nhi điểm chi. Diệc cứ âm lai dương thụ chi nghĩa dã.
Mạch có hoãn có cấp, như người ta có nhược có cường. Cấp thì cao lớn: Huyệt tại Kiềm Nhũ. Còn Hoãn thì nhỏ bé, thấp bạc.
Phàm lai long hai ba tiết đều hùng mạnh là Cấp huyệt ở Oa, Kiềm nơi chân núi mà điểm.
Còn sau huyệt mà thấy sơn bằng phẳng, nhuyễn nhược thì phải tìm chỗ đột cao lên ở huyệt trường mà điểm (nơi đột lĩnh).
Sơn cao là Âm, thấp là dương. Đám sơn đều cao ta chọn chỗ thấp mà điểm huyệt.
Các sơn đều thấp, tìm chỗ cao mà điểm huyệt. Đây là căn cứ vào nghĩa câu:
Âm lai dương thụ - Dương lai âm thụ.
Câu 5: Quan mạch tương tiếp, bất sai
Khí mạch kiêmthu, hữu hiệu.
Quan với mạch nối tiếp nhau là đúng phép.
Khí với mạch gồm thu cả mới hữu hiệu.
Luận câu 5:
Điểm huyệt chi pháp, sử quan bất ly mạch, mạch bất ly quan, nhược bất sai chi như mãn cư tán dã. Chính li vi mạch, lưỡng biên vi khí, yếu đắc kiêm thu nhập huyệt, thủy phát phúc hữu hiệu giả dã. Điểm huyệt là phép tìm chỗ cho quan không xa lìa mạch, mạch không xa lìa quan, phải như vậy mới được kết. Chính giữa là mạch thì hai bên là khí, cần phải cả khí lẫn mạch đều được kiêm thu vào huyệt thì việc phát phúc mới hữu hiệu.
Câu 6: Kim dụng Oa, Mộc dụng Tiết, diệu tại nhẫn suy. Thủy tầm khúc, Thổ tại Giốc, tựu chung linh tại nhỡn kiến.
Huyệt trường hình Kim (tròn) thì huyệt dụng Oa. Hình mộc (dài) thì kiếm chỗ Đốt (mắt) khéo léo ở mắt quan sát. Hình thủy (hình vòng vèo, méo) thì tìm huyệt ở chỗ Khúc (cong mập).
Hình thổ thì ở nơi góc (nếu có khác mấy góc kia) hoặc ở giữa (nếu 4 góc giống nhau) đó là hình lợi ở mắt nhìn.
Luận câu 6:
Kim viên hình, tựu oa nhi oa thủ. Vô oa tựu khai – nhi long, hổ, chủ, khách hữu tình tức tu khai tắc kim oa. Cố viết diệu tại nhãn suy.
Mộc bản cao kỳ tiết, vô tiết tầm ảnh, nhược vô tiết, ảnh, nhi sơn thủy hữu tình, tắc khí qui căn, nghi tác niêm căn (gốc).
Thổ tinh huyệt tại Giốc. Nhước bất minh tắc mạch quán trung, vi chính nghi huyệt tâm.
Thủy tinh nhược, đang tầm khúc xứ - Thủy tùy mạch nhi điểm - Cố viết linh tại nhãn kiến dã.
Kim hình tròn, ta kiếm chỗ vụng (oa) làm huyệt. Nếu không thấy chỗ vụng (oa) thì tìm chỗ Khai hoa (biến thể của oa) mà có long, hổ, chủ, khách hữu tình thi chính chỗ khai hoa này thay thế cho hình Oa (chỗ vụng) làm huyệt cho huyệt trường hình kim. Nên mới nói là khéo léo ở mắt quan sát.
Hình Mộc (dài) thì quý ở chỗ Đốt (mắt của cây). Nếu không thấy đốt (mắt của cây) thì ta tìm cái bóng của Đốt. Trường hợp không có đốt, lại không có cả bóng của đốt nữa, mà thấy sơn thủy hữu tình thì khí mạch tụ ở gốc (căn). Nên điểm sát gốc.
Thổ tinh (huyệt trường vuông hoặc chữ nhật) thì huyệt hay ở vào một góc (góc có hình tích khai huyệt và ngoài có long hổ vòng ôm).
Nếu các góc không có huyệt thì khí mạch đều tụ ở chính giữa. Nó chính là huyệt tâm, trường hợp 4 mặt cao giữa thấp, hoặc 4 mặt bằng mà giữa nổi lên hình Kim thì lại càng đúng.
Thủy tinh thì khí nhu nhược, ta nên tìm ở chỗ cong (phì hậu) mà điểm (phải có chứng ứng như long, hổ, án, sa). Như trên trình bày ta tùy mạch mà điểm, nên mới nói là linh ở mắt nhìn.
Câu 7: Hỏa tinh thập cá cửu không, biến kỳ quý khí đương cầu.
Kỵ long thập cá cửu giả, nhận kỳ thực huyệt vi thủ.
Hỏa tinh thì mười cái có 9 cái không, nếu thấy có quý khí mới nên tìm.
Kỵ long thì mười cái có 9 cái giả, nên tìm chỗ thực huyệt mà lấy.
Luận câu 7:
Hỏa bản tiêm đầu vô huyệt, nhược hỏa hình như đầu đại phì, tú khí tắc họa tuyệt ư phì xứ - Kỳ tọa hoành đạp hoành sử bất kiến tiêm đầu hỏa, cố viết chiên hỏa cách. Kỵ long đại địa bất kết ư tận xứ, cố viết kết chi ư nội, tiền hậu giai xung, giáp huyệt; phong bất chí, thử bất sinh, tầm kỳ chính tích, hoặc Oa, Kiềm, Nhũ, Đột. Minh tiền hiển hậu, đương nhận thử chi.
Kỵ hữu, thuận kỵ, đảo kỵ, hoành kỵ.
Thuận kỵ, lai sơn tác huyệt, khứ sơn tác án.
Đảo kỵ giả, khứ sơn tác huyệt lai sơn tác án.
Hoành kỵ, tống sơn tác tuyệt, nhược huyệt vật dụng dã.
Phàm kỵ long, sơn bảo hành thủy do phân, thập cá cửu không dã.
Nhược Long tụ, thủy giao, hữu chân huyệt, phát phúc vĩnh niên giả.
Hình hỏa nhọn đầu vốn không có huyệt. Nếu hỏa hình mà đầu mập lớn, có tú khí thời tọa tuyệt ở chỗ đầu mập. Nhưng dù chọn chỗ đầy mập cũng phải “tọa hoành, đạp hoành” nghĩa là làm sao chỗ ngồi của huyệt không còn nhìn thấy chỗ nhọn đầu của hình hỏa (hình nhọn) được. Phép này gọi là “Tiễn hỏa cách”.
Thế kỵ long (ngồi trên lưng long, còn xa mới tới minh đường) hay ở những ngôi đất lớn. Kỵ long thì huyệt không kết ở nơi tận xứ (gần minh đường) mà kết ở ngay trong (trên lưng) long, và trước sau của nó đều vệ giáp vào huyệt. Phải là chỗ mà gió không thổi tới, nắng không tới. Huyệt ở trên sống lưng long có thể là Oa - Kiềm – Nhũ hoặc Đột nhưng phải là chỗ trước, sau (những chứng ứng) phải minh hiển, rõ rệt.
Nói về kỵ long ta có cách:
1. Thuận kỵ (huyệt nhìn xuôi)
2. Đảo kỵ (huyệt nhìn nghịch)
3. Hoành kỵ (huyệt nhìn ngang)
a. Thuận kỵ thì lai sơn (sơn đến) làm huyệt và khứ sơn (sơn đi) làm án.
b. Đảo kỵ thì khứ sơn (sơn đi) làm huyệt, và lai sơn (sơn đến) làm án.
c. Hoành kỵ thì tống sơn (sơn tiễn) làm huyệt và nghinh sơn làm án.
Tuy nhiên, kỵ long mà thấy huyệt không chính xác thì chớ có dùng.
Phàm kỵ long mà sờn của long còn chạy đi, nước chưa tụ thì mưới cái có đến 9 cái không.
Còn khi thấy chắc chắn long đã đinh, thủy đã giao thì mới là chân huyệt. Sẽ phát phúc vĩnh viễn vậy.
Câu 8: Thổ tinh hữu huyền lăng, cá cá giai thị.
Thổ huyệt hữu triều ảnh, nhất nhất giai chân
Thổ tinh mà có “huyền lăng” thì cái nào cũng phải.
Thổ huyệt mà có “triều ảnh” thì nhất nhất đều trúng.
Luận câu 8:
Thổ tinh vi bình, tứ diện thành khởi, tựu trung nhi bất nghi, triều ảnh gia vận chi trung, lưỡng biên vệ huyệt, thiên vũ thủy vọng chi ảnh vimang, hợp ư vận nhi điểm huyệt chi, bất sai huyệt dã.
Thổ tinh bằng phẳng mà 4 phía chung quanh có thành cao lên thì huyệt kết tại chính giữa, không còn hoài nghi gì nữa.
Triều ảnh là ở trong vầng quầng mà hai bên có vệ huyệt, khi trời mưa nhìn thấy ánh nước lờ mờ, hợp với vầng quầng, ta điểm huyệt thì hẳn là đúng huyệt.
Câu 9: Hà tu nhất thể
Giải nhỡn lưỡng đầu
Râu tôm một thể
Mắt cua hai đầu.
Luận câu 9:
Hà tu giả, vi thủy vệ huyệt, dị kiến, chí nhược.
- Giải nhỡn, tả hành tắc tả biên minh, hữu biên ám. Tùy án tiền nhi điểm chi dã.
Râu tôm, hà tu là cái vi thủy (thủy nhỏ bé) vệ huyệt dễ nhìn thấy.
Mắt cua (giải nhỡn) thì nếu mạch đi tả biên thì tả biên rõ hữu biên mờ. Trường hợp này thì theo án đằng trước mà điểm huyệt.
Câu 10: Sơn bất hứa ư trực xung
Mạch trực sử ư quán nhĩ.
Sơn không nên đi thẳng đến huyệt.
Mạch trực nên cho vào (tài liệu mờ)
Luận câu 10:
Sơn mạch trực nhập, nhi tọa chi vị chi đấu, mạch sát, thả như:
a. Dậu long, tọa Dậu hướng Mão
b. Hợi long, tọa Hợi hướng Tỵ chi loại.
Phạm huyệt trực nhập, tác phân kim, thiên hướng sử mạch quán nhĩ, mạch nhập nhị dã.
Sơn mạch chạy thẳng vào quan là “đấu sát” (đấu mạch bị sát). Ví dụ như:
a. Dậu long mà tọa Dậu hướng Mão.
b. Hợi long mà tọa Hợi hướng Tỵ.
Là mạch xông thẳng vào quan.
Phàm huyệt mà trực nhập thì phân kim phải cho mạch đi xiên (khiến cho mạch không đâm thẳng vào não. Phải cho mạch nhập nhĩ, gọi là mạch vào tai vậy).
Câu 11: Sở quý cầu mạch thảo xà
Sở ái lâm điền bộ ảnh
Đáng quý, mạch như rắn bò trên cỏ
Đáng yêu mạch như bóng hiện trên ruộng
Luận câu 11:
Thảo xà mạch, hành như xà nhập dư tất tâm truyền thụ.
Ảnh giả, truyền giốc điền mạch dã.
Mạhc hành bình điền, nhận điều giốc bán thốn vi cao vọng chi, như ảnh tùy thân, khai khẩu minh dịch nhi điểm chi.
Thảo xà là mạch đi nhu rắn bò trên cỏ (hơi gợi lên).
Ta đã được tâm truyền thụ thụ.
Ảnh là mạch truyền góc ruộng. Đó là mạch đi ở bình điền, nhận thấy ở góc ruộng hơi cao lên (độ 1 tấc) trông nó như là bóng theo người. Tìm chỗ khai khẩu, hiện rõ mà điểm.
Câu 12: Tiêm đầu mạc hạ
Thử vĩ hưu thiên
Nhọn đầu đừng có hạ
Đuôi chuột chớ nên rời.
Luận câu 12:
Tiêm đầu khí bất tụ, thử vĩ khí bất chung. Phàm hình như tiêm đầu thử vị, tế tiểu nhi điểm khí bất chung dã.
Nhọn đầu khí không tụ, đuôi chuột khí không chung. Phàm mạch bé, hình đầu nhọn, hình đuôi chuột điểm ở chỗ nhọn chỗ nhỏ đó thì không có khí tụ vậy.
Câu 13: Án long tỵ vật thượng ư thần
Táng quy kiên, vật dụng ư sác.
Để ở mũi rồng, thì chớ cho xuống môi.
Táng trên vai rùa thì đừng cho lên mai.
Luận câu 13:
Long bản quý khí tại tỵ - Nghi điểm chi Quy bản huyệt tại kiên, vật dụng ư sác dã. Long điểm ư thần, tận khí dã.
Rồng vốn quý ở nơi mũi (nói chung là huyệt ở chỗ khí chung tu nên điểm vào mũi, chớ điểm thấp xuống mồm rồng. Rùa, nếu huyệt ở vai (nói chung là huyệt ở chỗ khí chung tụ) nên điểm vào vai (chớ điểm cao lên mai rùa).
Như trên, nếu rồng có khi chung tụ ở mũi mà điểm xuống quá thấp là điểm ở chỗ tận khí (không tốt).
Cũng như trên, nếu rùa có khí chung tụ ở vai mà điểm cao lên mai, thì bị sát, không tốt.
Câu 14: Thạch sơn tầm thổ huyệt
Thổ huyệt tầm thạch long.
Núi đã kiếm thổ huyệt
Thổ huyệt tìm thạch long
Luận câu 14:
Phàm thạch sơn bản vô huyệt, nhược kiến oa hình, thổ nhuận nghi điểm chi, giác thư vi quý. Nhược vô thạch mạch tụ, tựu hạ ư thổ xứ điểm chi.
Phàm núi đá vốn không có huyệt. Nếu núi đá mà thấy ở chỗ vụng (oa) có đất mềm thì nên chú ý mà điểm huyệt – Thư thái là quý.
Còn như không thấy khí mạch trên núi đá thì ta tìm xuống dưới chỗ có đất mà điểm.
Câu 15: Thạch thượng nghi táng
Thủy để diệc thiên.
Trên núi đá cũng có cách táng.
Dưới nước cũng có cách dời xuống.
Luận câu 15:
Thạch giả như nhân chi cốt, phàm cốt ngạnh, vô huyệt, nhược kiến tả hữu, hữu tình, tiền hậu phân minh, tú khí tụ chung, thổ diện giai thạch - Bất nghi phủ định quật chi - Kỳ pháp, trí quan ư thạch thượng, dĩ khách thổ bồi chi – Cao hậu ngũ xích diệt phát phúc dã.
Nhược chí mạch hành hoạt long, hoạt xà, quý sơn sở dẫn, quý thủy sơ tòng, đáo xứ bất biến huyệt, hoặc trì hồ tĩnh thủy bất động, hữu khởi tinh phong, hữu thực, thị thủy để huyệt nghi táng chi.
Đá cũng như xương người, phàm cốt, thì thô ngạnh, không có huyệt, nhưng thấy tả hữu mà hữu tình, trước sau phân minh, có tú khí chung tụ, mà trên mặt đất chỉ thấy có đá không có đất thì ta chớ nên dùng đinh và búa mà đào khoét xuống (làm huyệt). Ta phải dùng phép đặt quan tài trên đá, rồi lấy đất chỗ khác đem đến đắp lên. Đắp cao độ 5 thước (thước ta độ 25cm) cũng phát phúc vậy.
Còn nếu mạch đi hoạt long, hoạt xà, có quý sơn dẫn dắt, quý thủy đi theo, tới chỗ thích ứng mà không thấy huyệt mà thấy nơi đó có nước hồ trong sạch, êm tịnh bất động lại thấy (có chứng ứng) tinh phong khởi lên. Đó là có huyệt chim dưới nước. Ta nên tìm cách táng ở đó.
Câu 16: Phản thủ tắc niêm cao cốt.
Khúc bối tu ỷ tùy đầu.
Đất như bàn tay úp thì cốt lộ lên cao
Đất như khum lưng xuống thì kết huyện ở chỗ khum.
Luận câu 16:
Cốt giả sơn chi khởi phong, sơn hành như thủ chi phản, tầm kỳ cốt nhi điểm chi. Sơn đầu, cốt thủy đầu, tựu ư đầu, huyệt điểm chi.
Cốt là chỗ khởi phong của núi - Nếu thế núi như bàn tay úp, ta tìm chỗ cốt lộ mà điểm.
Xương đầu núi cúi khom xuống, ta tới chỗ đầu núi, tìm huyệt mà điểm.
Câu 17: Hiển đột bất dị ư đột thượng. Minh nhũ bất ly ư nhũ trùng.
Kiềm tác kỳ ỷ - Oa tác kỳ chi.
Hiển đột không rời khỏi “mặt đột”. Minh nhũ không lìa quá “trong nhũ” - Kiềm thời táng “ỷ” (ỷ là chỗ tựa). Oa thời táng “chi” (chỉ là chỗ ngưng).
Luận câu 17:
Thế hữu thiên đoan vạn hình, bất quá tứ thế: Oa - Kiềm – Nhũ - Đột.
Thế đất có nghìn vạn đoạn hình, nhưng điểm huyệt chẳng qua 4 thế là: Oa - Kiềm – Nhũ - Đột.
Câu 18: Tả hữu đầu trường, huyệt cư Nam
Tả hữu đầu đoản, huyệt cư Bắc.
Hai bên đầu tả hữu (long, hổ) dài, huyệt ở Nam. Hai bên đầu tả hữu (long, hổ) ngắn, huyệt ở Bắc (gần).
Luận câu 18:
Phàm huyệt thí như anh nhi, tả hữu như thế sở cầu. Tả hữu trường tắc nguyệt ngoại của tả hữu đoản tắc huyệt nội trú.
Đại khái huyệt cũng ví như đứa trẻ (được hai tay long hổ ôm bế che đỡ). Tả (long) hữu (hổ) cũng ví như người dìu dắt nó.
Tả hữu (long hổ) dài thì huyệt ở ngoài xa. Tả hữu (long hổ) ngắn thì huyệt ở trong gần.
Lưu ý: Bởi thế núi, nguyên tắc đi từ Bắc xuống nên nói Nm là nói ở xa, nói Bắc là nói ở gần. Và các vị thâm nho kể cũng thâm thật.
Câu 19: Ngoại kháng tầm nội mật
Nội cùng mịch ngoại thư.
Rộng rãi không khoáng thì tìm kín đáo bên trong.
Bức bách chật hẹp thì tìm thênh thang bên ngoài.
Luận câu 19:
Phàm huyệt hữu thế, hữu hình, minh đường khoảng khoát tất di, sử ư tiền hữu vi, cao dĩ yểm tâm dã. Nhược nội bức thái quá giả, nghi tựu mịch ư ngoại thư giả điểm chi.
Phàm huyệt có thế, có hình, nếu minh đường rộng rãi, phải rời xa xa, khiến cho đằng trước có chỗ hơi cao để che trước ngực. Nếu bên trong bức bách quá, kiếm chỗ thư thái bên ngoài mà điểm.
Câu 20: Tả động tả tầm
Hữu động hữu tầm.
Bên tả động, tìm huyệt bên tả. Bên hữu động tìm huyệt bên hữu (chỗ động, chỗ trông khang khác là chỗ khai huyệt).
Luận câu 20:
Truyền ngôn: thị Mộc, thị Kim, động trung thủ huyệt
Lời truyền rằng: Dù hình Mộc, dù hình Kim, cứ trông chỗ động mà tìm huyệt.
Câu 21: Minh Đường hiệp đê xứ điểm.
Minh Đường khoan cao xứ tầm.
Minh đường hẹp, điểm huyệt chỗ thấp. Minh đường rộng, điểm huyệt cao (chỗ cao mới bao quát được chỗ rộng).
Luận câu 21:
Hiệp nhi tọa đê, khoan nhị tọa cao. Giai bất hiểu ư đường tất tùy kỳ thế dã.
Câu 22: Chân lai Ngụy lạc, huyệt kỳ chân
Ngụy lai chân lạc, huyệt kỳ ngụy.
Mạch chân lại, mạch ngụy lạc, huyệt ở mạch chân.
Mạch ngụy lại, mạch chân lạc, huyệt ở mạch ngụy.
Luận câu 22:
Mạch hữu chân hữu ngụy, như long hành tam tứ tiết nhi Hợi giao, đáo hữu ngạnh tiết. Tý, Quý hành đáo như hữu minh dịch, diệc tựu Hợi điểm chi.
Mạch có mạch chân mạch ngụy. Nếu long hành ba bốn tiết đến Hợi giao tiếp, có tiết thô ngạnh. Tý quý có nước mạch rõ rệt, cũng theo mạch Hợi đó mà điểm.
Câu 23: Vật ngộ dụng bích lập tàng sơn
Vật ngộ dụng đê điền bạc xứ
Đừng dùng chỗ vách đứng của núi non.
Đừng dùng chỗ bạc nhược của bình dương.
Luận câu 23:
Hậu đầu sơn xứ bích lập cận điểm chi tắc sinh hung họa. Phàm đê điền bạc xứ vô huyệt tất bất dụng.
Nếu điểm huyệt gần vách đứng dựng của hậu đầu sơn thì sẽ sinh tai họa. phàm điểm huyệt mà thấy đất ruộng thấp đê bạc của bình dương thì cũng nên tránh.
Câu 24: Bắc thần lãnh thủy bức án vô phương
Hậu đầu chiết mộc, cận huyệt vật dụng
Phía Bắc có lãnh thủy, dù có án bức cũng vô hại.
Nơi hậu đầu có có chiết mộc, gần huyệt ta chớ nên dùng.
Luận câu 24:
Phàm huyệt tại bình điền, bình địa, tiền án cao nhất xích, cận ngũ bộ bức huyệt, sát hại, Đan Bắc hướng, bất hại. Nhược kiến nhất sơn hậu hoành án như mộc, cận táng đắc hại trướng.
Phàm huyệt ở nơi bình điền, bình địa mà trước huyệt có án cao một thước, ở gần huyệt năm bộ, sẽ bức huyệt, thì bị sát hại. Song, nếu án cao ở phương Bắc thì không hề chi. Nếu thấy núi vắt ngang đằng sau như hình Mộc mà táng gần, thì hại con trưởng.
Câu 25: Cao vật dụng phong xuy
Đê vật dụng thủy phá
Nơi cao đừng dùng huyệt có gió thổi.
Nơi thấp đừng dùng huyệt bị thủy phá.
Luận câu 25:
Cao úy phong xuy, phàm sơn cốc tùy kỳ tàng phong, cố sơn túc điểm chi.
Phàm đê điền vật dụng hậu sơn lưỡng bối cao mãn, hoàn thủy lâm phá hậu đầu, tất tuyệt tự dã.
Huyệt nơi cao phải tránh chỗ gió thổi, phàm huyệt nơi sơn cốc, phải điểm huyệt ở chỗ ít gió (mới tụ được khí). Ta phải kiếm huyệt ở chỗ chân núi mà điểm.
Phàm nơi bình dương (đất thấp) không nên điểm huyệt ở chỗ có hậu sơn mà hai bên huyệt cao đầy, sẽ dễ bị nước tràn phá vào hậu đầu - tất sẽ bị tuyệt tự.
Câu 26: Khai khẩu dụng thị đích
Minh dịch điểm vô sai
Điểm huyệt nơi khai khẩu là đích.
Điểm huyệt chỗ minh dịch không sai.
Luận câu 26:
Khai khẩu cứ khẩu nhi điểm – minh cứ dịch nhi điểm - Vận vô nhất thất dã
Thấy khai khẩu cứ chỗ khẩu mà điểm - Thấy dịch cứ chỗ dịch mà điểm, vạn cái không sai một.
Câu 27: Tứ loan kim vật dụng kim
Tứ loan thủy vật dụng thủy
Bốn kim nhạc đừng dùng kim.
Bốn thủy nhạc đừng dùng thủy.
Luận câu 27:
Tứ loan kim ư tứ phương, thủy dịch.
Bốn hình kim tròn ở bốn phương, thủy cũng như vậy. Trường hợp này mạch cương (kim) thì cương quá, mạch nhu (thủy) thì nhu quá cũng không có đất kết.
Câu 28: Đại để điểm huyệt chi pháp, cầu kỳ nguyệt chi đắc thế, mạch chi sở quán, khí chi sở quán, khí chi sở chung, dĩ các kỳ dư hỹ.
Đại để phép điểm huyệt:
- Cần tìm chỗ đắc thế.
- Mạch suốt tới chỗ quán.
- Khí phải chung tụ.
Là nói bao quát vậy.
Câu 29: Dưới đây là điểm huyệt vào những chỗ khai khẩu và minh dịch của các thế đất. Nếu không khai khẩu phải tìm chỗ long chân huyệt đích mới được, còn nếu cứ theo hình mà điểm huyệt rất dễ sai nhầm.
1. Thụ Đăng giả, điểm ư Đăng Tâm
(Cây đèn thì điểm vào tim đèn)
2. Liên Hoa giả, điểm ư Hoa Nội.
(Hình hoa sen thì điểm trong bông hoa)
3. Ngư tầm Phúc dữ Nhãn.
(Hình con cá tìm ở bụng và mắt).
4. Xà tầm Nhĩ di Tê
(Hình con rắn thì tìm nơi tai và rốn)
5. Tượng hình khán Khổng Tỵ.
(Hình con voi thì xem ở lổ mũi).
6. Ngưu hình khán Phúc Trung
(Hình con trâu thì coi nơi bụng)
7. Kê bão tầm Noãn Thượng
(Hình gà ấp tìm trên trứng)
8. Long hý châu, cầu Châu Trung
(Hình rồng rỡn quả châu tìm trong hạt châu)
9. Phượng ngộ tản phi, khí quy Túc Hạ
(Phượng tan bay thì khí quy ở dưới chân)
10. Phượng hàm thư khí quy Chủy Đầu
(Phượng ngậm sách, khí quy ở đầu mỏ).
11. Xà thính cáp tầm Nhĩ Thượng
(Rắn ngậm trai, tìm ở tai)
12. Long ẩm thủy, tầm Phúc Tề
(Rồng uống nước tìm ở bụng, rốn)
13. Bạch tượng quyến hồ, Hồ Trung thủ
(Bạch tượng cuốn nước trong hồ thì tìm trong hồ)
14. Mãnh hổ xuất sơn, Sơn Thượng tầm
(Mãnh hổ ra khỏi núi thì tìm trên núi)
15. Miên tróc thử, quan Nhãn
(Mèo bắt chuộc coi ở mắt)
16. Tê ngưu vọng nguyệt tầm Mục
(Con tê ngắm trăng tìm ở mắt)
17. Bạch mã ẩm thủy tầm Phúc
(Ngựa trắng uống nước tìm ở bụng)
18. Kim kê kiến xà, tầm Mục
(Kim kê thấy rắn, tìm ở mắt)
19. Quy hạ than tầm Lưỡng Nhãn
(Rùa xuống bến nước tìm ở hai mắt)
20. Quy triều Bắc, mịch Lưỡng Kiên
(Rùa triều hướng Bắc, tìm ở hai vai)
21. Quần dương kiến khuyển, huyệt tại Khuyển
(Đàn dê thấy khuyển, huyệt ở hình khuyển)
22. Quần nga kiến Thi, huyệt tại Thi
(Đàn quạ thấy xác chết, huyệt tại xác)
23. Hoàng xà thổ khí, kiếm Ngoại khí
(Hoàng xà phun khí, kiếm ngoại khí)
24. Sư tử hí châu, Châu Thử mịch
(Sư tử dỡn trâu, tìm quả châu)
25. Ngô công, khán Lưỡng Nhãn.
(Hình con rết xem ở hai mắt).
26. Uyển đình quan Nhất Tề
(Hình con thằn lằn xem ở rốn)
27. Tiên nhân thúc đái, huyệt tại Âm Môn.
(Cô tiên thắt dây lưng huyệt ở âm môn)
28. Mỹ nữ hiển hoa, huyệt cư Nhũ Thượng
(Gái đẹp dâng hoa, huyệt ở trên vú).
MÃ TỬ ĐỒ
Đệ nhị cách
HỮU ĐỆ NHỊ CÁCH
Thê tòng Huyền Vũ, Hổ, Long phân
Tả hữu loan hoàn nhập thử phần
Lưỡng Hổ đới triền thành triết phụ
Trùng Long liên bút xuất hiền nhân.
Đường tiền nguyệt chiếu sinh Tiên nữ
Sơn hậu trùng trùng xuất Tướng quân.
Đại địa khả tri y thử cục.
Đương minh huyệt nội thọ thiên xuân.
CÁCH THỨ HAI
Thế theo Huyền Vũ, Hổ, Long phân,
Phải, trái vòng cong ấp mộ phần
Lưỡng Hổ thêm triền nên vợ tốt,
Trùng Long liền bút xuất hiền nhân
Minh đường trăng chiếu, sinh Tiên nữ
Sơn hậu muôn lần, phát Tướng quân
Đại địa là đây, ai khá biết.
Đường minh gần huyệt, thọ muôn xuân.
CHƯƠNG III
SƠN THỦY PHÁP
A. HƯỚNG DẪN PHẦN SƠN THỦY PHÁP
Sơn thủy pháp là cách xem tướng đất để biết người ra sao.
B. SƠN THỦY PHÁP
Câu 1: Nhân ư hiền ngu, hệ ư sơn thủy
Người để được đất mà hiền hay ngu, là do sơn thủy của cuộc đất đó.
Câu 2: Sơn hậu nhân phì, sơn bạc nhân sấu.
Sơn tịnh nhân hảo, sơn trọc nhân mê
Nếu núi mà đầy đặn thì sinh người mập mạp, nếu núi mà bạc nhược thì sinh người ốm gầy, núi mà tinh thì sinh người tốt giỏi, núi mà ô trọc thì sinh người ngu mê.
Câu 3: Sơn quý kỳ tú, nhi la
Ố kỳ trực ngạnh nhi chí.
Núi quý ở chỗ thanh tú mà đến.
Núi ghét ở chỗ trực ngạnh mà tới.
Câu 4: Huyệt tại sơn, nhi họa phúc tại thủy.
Huyệt ở núi mà họa phúc ở nước
Câu 5: Thủy tĩnh nhân tú, thủy trọc nhân mê
Thủy khứ nhân bần, thụy tụ nhân phú
Thủy tĩnh thì sinh người thanh tú, thủy ô trọc thì sinh người mê muội.
Thủy chảy siết (không tụ) thì sinh người nghèo khó. Thủy dồn tụ thì sinh người giàu có.
Câu 6: Thủy quý kỳ khuất khúc nhi chí
Ố kỳ tà phản nhi lưu
Thủy quý ở chỗ quanh co mà đến.
Ghét vi phản tà mà chảy qua.
Câu 7: Sơn vi phu thủy vi phụ, phu xướng phụ tùy
Sơn là chồng, thủy là vợ, chồng xướng xuất thì vợ phu theo.
Câu 8: Sơn vi hùng, thủy vi thư
Hệ sơn tắc thủy tòng
Sơn là hùng, thủy là thư, có sơn dẫn là có nước theo.
Câu 9: Sơn chủ nhân, thủy chủ tài
Sơn chủ người, thủy chủ tiền của.
Câu 10: Sơn yếu hồi, nhi thủy yếu nghịch
Sơn cầu hồi, mà thủy cầu nghịch
Câu 11: Sơn hậu vượng nhân đinh
Thủy triều tiến tài lộc
Sơn dầy, hậu thì vượng người.
Thủy triều lại thì thêm tài lộc.
Câu 12: Sơn súc súc nhi tối ái tú.
Thủy dương dương nhi triều cực thanh.
Sơn chót vót thì quý nhất là tú mỹ.
Thủy rào rạt triều về mà trong suốt.
Câu 13: Sơn vưu hậu nam nữ thọ xương
Thủy chừng ngưng tử tôn thanh tú
Sơn càng hậu thì trai gái càng thọ xương.
Thủy càng ngưng đọng thì con cháu càng thanh tú.
Câu 14: Sơn tha nga ác khí, bất cát
Thủy bộc lộc, khắp khốc, tối hung
Sơn lởm chởm có ác khí thì không cát
Thủy bộc chảy kêu réo (như khóc) thì rất hung.
Câu 15: Hữu sơn vô thủy, vi chi cô sơn
Hữu thủy vô sơn vị chi cô thủy
Có sơn mà không có thủy gọi là cô sơn
Có thủy mà không có sơn gọi là cô thủy.
Câu 16: Sơn cố thủy, thủy cố sơn; dung kết chi địa dã
Sơn nghênh thủy, thủy nghé sơn mới là có đất kết vậy.
MỘC TƯỚNG THỦ THÀNH
KIM TINH LẠC THỦY CÁCH
Đệ tam cách (3)
HỮU ĐỆ TAM CÁCH
Cổn cổn sơn hành đới thủy biên.
Tổ long cao trạc, tảo Khôi nguyên
Long cung giá bút đăng thiên ngoại
Hổ bạn trừng thanh, nguyệt chiếu tiền
Nhất địa, hà tri, tâm tối hảo
Tử tôn phú quý tất thiên nhiên.
CÁCH THỨ BA
Sơn hành lớp, thủy liền bên,
Tổ sơn cao vút, phát Khôi nguyên
Trong Long: Bút giá cao vòi vọi
Cạnh Hổ: Đầm trong trăng chiếu tiền,
Được một đất này ôi quá đủ,
Cháu con phú quý, lý đương nhiên.
CHƯƠNG IV
MINH ĐƯỜNG THỦY PHÁP
A. HƯỚNG DẪN PHẦN MINH ĐƯỜNG THỦY PHÁP
Nước tụ trước huyệt là Minh Đường. Một minh đường tốt phải có đủ điều kiện tốt chỉ dẫn ở chương này. Minh đường có thể chỉ có một và có thể có hai hay ba hay nhiều hơn nữa. Minh đường gần sát là nội đường, kế nữa xa hơn là trung đường, và xơ nữa là ngoại đường. Muốn biết giàu có hay nghèo khó ta hãy coi minh đường. Muốn biết thông minh hay ngu tối, ta cũng nên coi minh đường.
B. MINH ĐƯỜNG THỦY PHÁP
Câu 1: Hình như ấn chưởng, tất chủ mãi điền.
Thế nhược tu nang, định gia tích ngọc.
Minh đường hình như bàn tay để ngửa (trũng) chủ mua được nhiều ruộng đất.
Minh đường thế như cái túi chứa, định rằng nhà có ngọc ngà súc tích.
Câu 2: Tiên thủ minh đường
Hậu thủ điền ngọc
Trước phải có minh đường.
Sau mới có ruộng đất, vàng ngọc.
Câu 3: Hữu đường hữu huyệt
Vô đường vô huyệt.
Có minh đường mới có huyệt kết.
Không có minh đường thì không có huyệt kết.
Câu 4: Đường bất nhất đẳng nhi hữu đa dạng
Đường không phải chỉ có một dạng, mà có nhiều hình dáng.
Câu 5: Đệ nhất tối quý giả:
- Nội mật tiểu tiểu
- Hoặc phương, hoặc viên
- Hoặc dung nhân trác ngọa giai sử
Lưỡng thủy thiếp ư nội, nhi ngoại hữu đường dung vạn mã.
- Quý nhất là bên trong kính đáo, nho nhỏ.
- Hoặc vuông hoặc tròn.
- Hoặc vừa người nằm nghiêng đều khiến cho hai mạch thủy yên lặng ở trong, mà bên ngoài lại có minh đường rộng lớn chứa được ngàn vạn con ngựa
Câu 6: Đường hữu nội, hữu trung, hữu ngoại, vị chi tam đường.
Đường có nội đường, trung đường, ngoại đường, gọi là tam đường.
Câu 7: Tam đường giả, giai tích tụ phú quý tiền tài vô số
Cả ba đường này đều có nước tích tụ, thì có rất nhiều tiền của.
Câu 8: Nhất thốn thổ, nhất thốn kim, tứ thời sơn thủy, tứ thời trân.
Một tấc đất (nước) một tấc vàng, bốn mùa sơn thủy (có nước) lài loại minh đường bốn mùa trân quý.
Câu 9: Địa hữu minh đường như nhân hữu phúc, cổ tích thủy nhi tích huyết.
Đất có minh đường cũng như người có tâm phúc, cho nên chứa thủy là chứa huyết mạch.
Câu 10: Minh đường bình chính giả, tử tôn tuấn tú tài lương.
Minh đường tà khuynh giả, tử tôn du đãng, bần phạp.
Minh đường mà ngay ngắn thì con cháu hiền tài.
Minh đường mà nghiêng lệch thì con cháu du đãng nghèo.
Câu 11: Tích thủy vị chi tích ngọc, tán thủy tức tán tài.
Minh đường có chứa nước cũng như chứa ngọc, minh đường mà nước chảy tiêu tan cũng như tán tài.
Câu 12: Sở kỵ giả, thu vô thủy.
Sở úy giả, nội thế tà.
Điều đáng kỵ là mùa thu minh đường cạn nước.
Điều đáng sợ là nội thế minh đường nằm nghiêng (không kết).
Câu 13: Thủy thuận khứ, khí bất tụ
Nước chảy xuôi thuận đi (không chứa) thì khí không tụ (vì nước theo khí của núi).
Câu 14: Đại để phú quý, bần tiện, hệ ư minh đường, thử đặc luận minh đường phương yếu ư địa vị.
Đại để giàu sang nghèo hèn là quan hệ ở minh đường đây là đặc biệt bàn về minh đường đối với vị trí của đất.
Câu 15: Tây Bắc bản Kim, thủy tụ khí chung quán (tài liệu mờ)
Tây Bắc vốn hành Kim (quẻ Càn). Cố thủy tụ khí chung suốt, kín che chở chu đáo rồi, cho nên nói rằng Bắc thì không cần luận minh đường.
Lời bàn thêm: Thực ra thì nước chảy theo chiều Tây Bắc, Đông Nam nên huyệt quay về hướng Tây Bắc, đã thu được tất cả thủy từ cao xa về lòng rồi.
Câu 16: Tuy nhiên Đông Nam chân kỳ thủy tụ. Nhược thâm nội, thái quá giả, khả kỵ. Khoáng đại thuận lưu, khả kỵ.
Tuy nhiên phương Đông Nam thiệt có thủy tụ, nhưng nếu sâu quá cũng đáng kỵ, mà không khoáng rộng lớn, chảy xuôi cũng đáng kỵ.
Câu 17: Tả khuynh giả, sơ niên bất lợi.
Nghiêng về bên trái thì những năm đầu không lợi.
Câu 18: Cục mỹ, đường khuynh, thoái quan lạc chức
Cuộc đất đẹp mà đường nghiệp thì làm quan trước sau cũng bị thoái quan lạc chức.
Câu 19: Huyệt cát thủy khuynh tức quý nhi bần.
Huyệt cát mà nước nghiêng thì quý nhưng nghèo.
Câu 20: Đường cận tốc phát, đường viễn trì phát.
Đường gần huyệt thì phát sớm, đường xa huyệt thì phát chậm.
Câu 21: Đường thanh, thanh tú, đường trọc, trọc dâm.
Đường trong sinh người thanh tú, đường đục thì sinh người trọc dâm.
Câu 22: Tả tụ, trưởng nam tiến phát
Hữu tụ, thứ nam tiên hưng.
Đường tụ bên trái thì trai trưởng phát trước, tụ bên phải thì trai thứ phát trước.
Câu 23: Thử Minh Đường chi thể luận dã.
Đây là luận về đại thể minh đường.
THỦY KHẨU
Câu 24: Khai thủy khẩu định long lai:
1. Ất, Bính giao nhi xu Tuất
2. Tân, Nhâm hội nhi tụ Thìn
3. Đẩu Ngưu nạp Đinh Canh chi Khí,
4. Kim dương thu Quý Giáp chi linh.
Thấy thủy khẩu thì biết long lai:
1. Ất Bính giao nhau mà đi đến Tuất.
2. Tân Nhâm hội ngộ rồi tụ ở Thìn.
3. Đẩu Ngưu (Sửu) là nơi nạp khí của Đinh Canh.
4. Kim Dương (Mùi) là chỗ thu linh khí của Quý Giáp.
Cho ta biết là biết thủy khẩu thì biết long lai (long đến) như sau:
1. Long đến từ phía Nam, nếu thủy khẩu xuất ra ở phía Bắc (Tuất).
2. Long đến từ phía Bắc, nếu thủy khẩu xuất ra ở phía Nam (Thìn).
3. Long đến từ phía Tây, nếu thủy khẩu xuất ra ở phía Đông (Sửu).
4. Long đến từ phía Đông, nếu thủy khẩu xuất ra ở phía Tây (Mùi).
Và cũng cho ta biết:
1. Long từ phía Nam đến là Hỏa cuộc long.
2. Long từ phía Bắc đến là Thủy cuộc long.
3. Long từ phía Tây đến là Kim cuộc long.
4. Long từ phía Đông đến là Mộc cuộc long.
Và cũng cho ta biết:
1. Hỏa cuộc thì
a. Long từ Ất đi xuôi chiều
b. Hay từ Bính đi ngược chiều.
2. Thủy cuộc long thì:
a. Long từ Đinh đi xuôi chiều
b. Hay từ Nhâm đi ngược chiều.
3. Kim cuộc long thì:
a. Long từ Đinh đi xuôi chiều
b. Hay từ Canh đi ngược chiều
4. Mộc cuộc long thì:
a. Long từ Quý đi xuôi chiều.
b. Hay từ Giáp đi ngược chiều. Trên đây mới về Long của Thủy pháp, còn nếu nói cả Long lẫn Thủy của Thủy pháp thì sẽ xin trình bày ở Phụ lục 3. Tiếp theo ta hãy khai triển phần Thủy khẩu trong bài Thủy khẩu. 1. Địa hữu thủy khẩu, ngoại minh đường thủy khẩu phóng dã. Cuộc đất phải có thủy khẩu. Thủy khẩu là nơi nước phóng (từ nội cuộc) ra ngoài minh đường vậy. 2. Sở quý chi huyền khuất khúc, tế tiểu bất thông chu, quan tỏa ư ngoại. Điều đáng quý là nước chảy chữ chi, chữ huyền, quanh co khuất khúc, nhỏ bé, không đi lọt cái thuyền, đóng khóa ở ngoài (thủy khẩu). 3. Hoặc triển kỳ nhi khứ, hoặc toàn nhiễu nhi lưu. Hoặc như mở cờ mà đi, hoặc quanh quẩn mà chạy. 4. Sở kỵ giả, quảng trực xuất Điều đáng kỵ là (nước thủy khẩu) rộng mà chạy thẳng. 5. Nhược cầm hình, thú hình, du ngư, gia ngư, tẩm bút, quái thạch, thử đại, quý chi địa giả. Nếu có (then khóa ở thủy khẩu) hình con cầm (nhỏ), con thú (lớn), cá bơi, cá lội hoặc quái thạch tấm bút (bút chấm nước) đó là đất đại quý vậy. MÃ TỬ TRANH TIÊN (Đệ tứ cách 4) HỮU ĐỆ TỨ CÁCH Long hành uyển chuyển bút sinh biên Thử thị Thần đồng trạc thiếu niên Hổ xuất hổ mao, hình tự lập Mã khép mã tử, thế tranh tiên Vân đằng sơn ngoại Thần đông xuất. Nguyệt chiếu giang hồ, Ngọc nữ truyền. Nhược kiến đại giang hoàn nhiễu bảo Tất nhiên phụ tử kế Khôi nguyên. CÁCH THỨ 4 Long hành uyển chuyển, bút liền bên, Ất đất Thần đồng, đỗ thiếu niên. Hổ quát đuôi hùm, hình tự lập. Dắt con ngựa mẹ, dáng tranh tiên. Ngoài xa núi hiên, Thần đồng xuất, Trăng chiếu trong sòng, Ngọc nữ truyền Nếu được sông to vòng quắn lại Ất là Phụ Tử kế khôi nguyên CHƯƠNG V HUYỀN VŨ PHÁP A. HƯỚNG DẪN PHẦN HUYỀN VŨ PHÁP Nếu đằng trước có minh đường và án, diệu tinh thì đằng sau huyệt phải có huyền vũ. Huyền vũ là nơi mạch từ ở đó rồi rót vào huyệt. Huyền vũ cao, dày thì có nhiều khí mạch dự trữ, và con cháu người để được đất đó sẽ có nhiều sinh khí, sống lâu hơn. B. HUYỀN VŨ PHÁP Câu 1: Huyền vũ, âm thiên dã quý kỳ thủy đầu, bình chính phương viên. Huyền vũ là âm thiên vậy, quý ở chỗ cúi đầu, bằng ngay vuông tròn. Câu 2: Sở khai trướng, loan cung, hoặc ngoại bình kiến quỷ. Huyền Vũ (tốt) thì có khai trướng, vòng cung, hoặc ngoài bằng phẳng trông thấy quỷ. Câu 3: Yếu sử kỳ bản thân vi cao, vật sử ngưỡng ngọa, phong xuy. Cần khiến cho bản thân hơi cao, đừng để như nằm ngửa, bị gió thổi. Câu 4: Vật sử thủy phi, sơn khứ Đừng nên có thủy phi và sơn chảy đi. Câu 5: Phương xương viên hồ phú nhi khả thọ. Hình có hòm vuông, hồ tròn thì giàu có và thọ. Câu 6: Tôn nghiêm, tiêm bút, tú cao, quý nhi thả vinh Tôn nghiêm, có bút nhọn thanh tú và cao thì quý và vinh hiển. Câu 7: Sở kỵ giả, đê bạc phong xuy Điều đáng kỵ là (huyền vũ) bị thấp mỏng và bị gió thổi. Câu 8: Sở kỵ giả thô bạo lăng áp. Điều đáng kỵ nữa là thô bạo và lấn át huyệt. Câu 9: Thử Huyền Vũ chi chư dã Đó là chủ yếu về Huyền Vũ vậy. CÁT CẦM TINH HÌNH ĐỒ Đệ ngũ cách (5) HỮU ĐỆ NGŨ CÁCH Tố khởi tả kiên nhập hữu sa Long tòng thủy nhiễu tụ đường oa. Long quá Tây cung, tiên bái tướng Hổ quá Đông cung, thế thế khoa CÁCH THỨ NĂM Tổ sơn từ tả hữu liền sa, Thủy tụ, Mạch dừng, Huyệt kết oa. Long quá Tây cung, triều bái tướng Hổ qua Đông vị, nối muôn khoa CHƯƠNG VI CHU TƯỚC PHÁP A. HƯỚNG DẪN PHẦN CHU TƯỚC PHÁP Chu tước là các gò đống ở trước huyệt. B. CHU TƯỚC PHÁP Câu 1: Chu tước dương địa dã. Chu tước là dương địa vậy. Câu 2: Quý kỳ tường vũ triều nghinh, hoặc thanh thúy tam quang, hoặc miên cung nhất bão. Chu tước quý về chỗ nó múa lượn, triều đón huyệt hoặc tươi tốt sáng sủa, hoặc là vòng cung ôm lại. Câu 3: Yếu sử nội chi trừng thanh, tắc tử tôn thanh tú. Cần phải cho bên trong thanh nhã thì con cháu sẽ thanh tú. Câu 4: Song phong tịnh đối, chúng thủy triều dương, tam thai liệt tú, ngũ nhạc triều nghinh, tam quân xuất trận, vạn giáp bài tiền, thử quý cách dã. Chu tước mà có hai ngọn núi đối nhau, mọi dòng nước lại triều, có tam thai bày hàng thanh tú, có ngũ nhạc chầu lại, như ba quân xuất trận, như vạn giáp bày hàng ở trước, đó là cách quý vậy. Câu 5: Vật sử thủy chi thuận lưu, sơn chi tán loạn Đừng khiến cho thủy chảy thuận xuôi, cho sơn chạy tán loạn. Câu 6: Tối kỵ giả, tha nga ác khí Thậm sơ úy giả, nội u âm Đáng kỵ nhất là lởm chởm có ác khí, đáng sợ nhất là tù hãm, âm u. Câu 7: Thử Chu Tước chi mật dã. Đó là cơ mật của Chu tước vậy. NGƯU MIÊN CHI ĐỒ Đệ lục cách (6) HỮU ĐỆ LỤC CÁCH Thiền thiều phát tố khởi căn nguyên Uyển chuyển hồi hoàn mạch khúc huyền Hữu kiên đáo tả nhi chuyển hữu Bàn vu cục thế tự ngưu miên. Đường khai nội ngoại gia chân huyệt. Sơn chiếu quần tinh phúc vĩnh miên CÁCH THỨ SÁU Đùn đùn mạch tự Tổ sơn nguyên, Khuất khúc trông như nét chữ “Huyền”. Vai hữu chuyển tả, tả về hữu Hình như Trâu ngủ tại bình điền. Minh đường nội ngoại đều: Chân huyệt, Chiếu ứng quần tinh, phúc vạn niên. CHƯƠNG VII LONG HỔ PHÁP A. HƯỚNG DẪN PHẦN LONG HỔ PHÁP Long hổ là giải đất nhô ra ôm lấy huyệt - Giải đất bên trái gọi là Long hay Thanh Long. Giải đất bên phải gọi là Hổ hay Bạch Hổ. Tay Long ứng về con trưởng hay con trai, và tay Hổ ứng về con thứ hay con gái. Có thể chỉ có một Long và một Hổ và có thể có nhiều Long, Hổ. Long, Hổ có tốt có xấu, ảnh hưởng đến sự tốt xấu của con cháu. Thường thường huyệt trường xuất ra nội long và nội hổ. Long hổ có thể có một cặp và cũng có thể có nhiều cặp. Trên 3 tầng long hổ là quý. B. LONG HỔ PHÁP Câu 1: Phù địa hữu long hổ như nhân hữu thủ túc. Đất mà có long hổ như người ta có chân tay. Câu 2: Long Hổ vệ huyệt như thủ túc vệ thân Long Hổ bảo vệ cho huyệt như chân tay bảo vệ cho thân thể. Câu 3: Long bão hổ tối quý, hổ bão long vị toàn Long mà ôm lấy hổ thì rất quý, còn hổ mà ôm lấy long thì chưa được hoàn thành, vì ngành thứ lấn át ngành trưởng, con gái lấn át con trai. Câu 4: Cố viết: Long yếu trường, Hổ yếu đoản. Nên mới nói rằng long cần dài, hổ cần ngắn Câu 5: Long chủ sinh Nam, văn thần, triền nhiễu hồi đầu vi ái Hổ chủ sinh nữ, vũ chức, tôn cứ vi quý Long chủ sinh con trai, sinh văn quan, nếu quấn quít, quay đầu lại là đáng yêu. Hổ chủ sinh con gái, vũ tướng, nếu ngồi tôn nghiêm là quý. Câu 6: Hổ phản xuất, tắc nữ ưu, vũ phế. Long phản ta, tắc nam táng nhi văn suy. Hổ phản ra, con gái buồn lo, vũ chức bị phế bỏ. Long mà phản, thì trai bị ly tán, mà văn chức cũng suy. “Trường hợp này phải ly hương mới khá”. Câu 7: Long hổ hữu lực, huyệt thị quý Long hổ vô tình huyệt thị tiện Long hổ có lực là huyệt quý. Long hổ vô tình là huyệt tiện. Câu 8: Long sinh chi, vị chi long sinh tử tôn Hổ sinh dực, vị chi hổ hữu nội ngoại Long sinh chi nhánh, gọi là long sinh tử tôn Hổ sinh cánh, gọi là hổ có nội ngoại. Câu 9: Long Hổ dữ Thủy nghịch thiên hạ chân vô địch. Long Hổ dữ thủy thuận, gia trung tài dụng tận. Long Hổ cùng thủy nghịch, thiên hạ thật vô địch. Long Hổ cùng thủy thuận, trong nhà tiền dùng hết. Câu 10: Sở kỵ giả, Long phản bội, Hổ ngang đầu Điều đáng kỵ là long quay lưng lại và hổ vươn đầu lên, “sinh nghịch nhân” Câu 11: Tả lai nhi hữu quá cung vệ huyệt, vị chi Hổ nghịch. Hữu lai nhi tả quá cung vệ huyệt, vị chi Long nghịch Hổ từ phải đến, quá cung sang bên hữu là hổ nghịch. Long từ trái đến, quá cung sang bên tả là long nghịch. Câu 12: Trùng long, trùng hổ phát trùng đại. Đơn long, đơn hổ phát đơn đại. Nhiều long, nhiều hổ phát nhiều đời. Đơn long, đơn hổ phát một đời. Câu 13: Cố viết: Luận địa bất quá tả Thanh long, hữu Bạch hổ dã Cho nên nói rằng: Luật đất thì bất quá tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ vậy. QUÝ NHÂN LẬP MÃ Đệ thất cách (7) HỮU ĐỆ THẤT CÁCH Hậu sơn điệp điệp xuất trùng sơn Long hổ thiều thiều thế nhược bàn. Thủy thanh nghi đắc thanh giang chiếu Kim bạch tu cầu gián thủy loan Nam tử tất sinh đa thịnh vượng Nữ nhi định thị xuất bình an Chân huyệt ký đắc truyền thiên thế Vạn đại thời sư yếu sát quan. CÁCH THỨ 7 Sau đầu khởi phục điệp trùng sơn, Long, Hổ lần lần thế uốn tròn Thủy thanh bởi tại thanh giang chiếu, Kim bạch nên cầu gián thủy loan. Nam tử nếu sinh, là thịnh vượng, Nữ nhân hễ xuất, ắt bình an. Huyệt sẵn an bài dành hậu thế, Thời sư vạn đại đến chiêm quan. CHƯƠNG VIII QUAN QUỶ LUẬN A. HƯỚNG DẪN PHẦN QUAN QUỶ LUẬN Trước huyệt mà long hổ thôi ra gọi là tiền, quan. Sau huyệt mà đất cúi xuống gọi là hậu quỷ. Chỗ gần gọi là quan hay quỷ và chỗ xa gọi là Triều. Cụ Tả Ao nói: “Án dày muốn thấp triều dày lại cao”. Vậy án hay quan quý ở gần phải thấp và càng xa phải càng cao mới đúng phép. Cũng có thể gọi gò đống trước huyệt là án và gò đống sau huyệt là quỷ. B. QUAN QUỶ LUẬN Câu 1: Huyệt tiền long hổ thôi xuất vị chi tiền quan. Huyệt hậu thùy đầu vị chi hậu quỷ. Trước huyệt mà long hổ thôi ra, gọi là tiền quan. Sau huyệt mà cúi đầu xuống gọi là hậu quỷ. Câu 2: Quan Quỷ hữu cát hung Quan Quỷ có cát, có hung a. Tiền quan cát: - Liên châu quan (liên tiếp như chuỗi châu) - Đới khố quan (đeo cái khố) - Tam thai quan (ba ngọn núi) - Ngũ nhạc quan (năm ngọn núi) - Tiêm xuất quan (nhọn ra) Quan như vậy là quan cát. b. Tiền quan hung: - Tha nga quan (lởm chởm) - Hân quần quan (vén quần) - Vũ tụ quan (tung vạt áo) - Tà phi quan (bay chéo) - Khứ thủ quan (mất đầu) Quan như vậy là hung c. Quỷ diệc hữu cát hữu hung Quỷ cũng có cát có hung. Quỷ hung như: - Đới đổ bác quỷ. - Đới sát quỷ. - Tà phi quỷ (Đều là hung) Câu 3: Thuận thế dĩ quan vi quý Hồi hoành dĩ quỷ vi tiên Thuận thế thì lấy quan làm quý. Hồi hoành thì lấy quỷ làm trước. Câu 4: Đại địa hữu quan hữu quỷ, kỳ địa tối mỹ. Đất lớn có quan có quỷ, là đất rất đẹp vậy. Câu 5: Quan xuất tiền triều cao thiên. Quỷ thác hậu vi quan tối quý Quan xuất đằng trước là được cao thăng Quỷ đỡ đằng sau, làm quan rất quý. Câu 6: Huyệt tuy xưng, quan quỷ vưu xưng Huyệt vị minh, quan quỷ ích minh Huyệt đáng khen có quan quỷ càng đáng khen hơn. Huyệt chưa minh bạch có quan quỷ nhìn càng thêm rõ. Câu 7: Thử quan quỷ chi luận dã Đây là luận về quan quỷ vậy. QUỶ SƠN VƯƠNG TỰ PHÁT MỘC NHÂN HÌNH CẢI TỬ HOÀN SINH CÁCH Đệ bát cách (8) HỮU ĐỆ BÁT CÁCH Nhất cá Quỷ tinh phát bản nhân Nhị cá Quỷ tinh tác tỉnh nguyên Tam cá Quỷ tinh Hàn lâm vị Đề hình Án phủ Vận ty liên Tứ cá Quỷ thần nhập Triều sĩ Nhật lệnh quỹ mật phụ Vương thiên Lục cá Quỷ tinh vi Chinh bái Hợp môn ân quyến quế chi sinh. CÁCH THỨ 8 1. Quỷ phát bản thân 2. Quỷ phát Tỉnh nguyên. 3. Quỷ phát Hàn lâm, Đề hình, Án phủ, Vận ty Quan 4. Quỷ phát thi đỗ, được nhập triều đình 5. Quỷ phát Nhật lệnh quỹ mật giúp vua. 6. Quỷ được đăng đàn bái tướng Nếu Quỷ hợp ở cửa, toàn gia được đỗ đạt cao sang. CHƯƠNG IX DIỆU TINH PHÁP A. HƯỚNG DẪN PHẦN DIỆU TINH PHÁP Những gò đống nhỏ xuất bên ngoài hay trên tay Long tay Hổ gọi là Diệu Tinh. Diệu Tinh, Sa, Quan quỷ cần phải bao bọc, bảo vệ, vòng ôm lấy huyệt thì mới tốt. B. DIỆU TINH PHÁP Câu 1: Diệu giả, tiền xuất giả - Hữu thuận Diệu, nghịch Diệu. Diệu tinh xuất ở trước “ngoài long hổ”. Có thuận diệu và nghịch diệu. Câu 2: Phàm kết huyệt ư nội, long vệ ư ngoại, ngoại hữu diệu xuất dã. Phàm kết huyệt ở trong, long vệ ở ngoài, ngoài nữa có diệu xuất vậy. Câu 3: Diệu hữu đa thể: a. Hữu loan cung diệu b. Hữu lư tiên diệu c. Hữu triêm xuất diệu d. Hữu trường giang diệu Diệu tinh có nhiều thể: a. Có diệu ôm vòng cung. b. Có diệu như chiếc roi. c. Có tiêm xuất diệu d. Có diệu trường giang. Câu 4: Đắc chi nghi giai, trường, hữu lực vi quý Diệu cần được đẹp, dài, có lực là quý. Câu 5: Thử hảo cách tại diệu tinh dã Đây là cách tốt của diệu tinh vậy. THU NGUYỆT ẤN SIÊU ĐỒ Đệ cửu cách (9) HỮU ĐỆ CỬU CÁCH Long hình loan bão tử vi viên Khí tụ hình tàng tại thủy uyên Sơn khởi Kiền, Khôn nghi Cấn, Tốn Thủy trùng bất tiết huyệt thiên nhiên Long khởi loan hồi nhất bao quả Thủy tụ trùng thanh sơn nhất cá Nguyệt chiếu tinh thần thân bão hướng. Thử địa khoa danh đa hiển bá. CÁCH THỨ 9 Mạch vòng ôm khắp bốn phía của Viên cục. Khí tụ, huyệt ẩn trong vực nước. Sơn khởi ở các cung Kiền, Khôn, Chấn, Tốn. Thủy lắng trong cả bốn mùa, huyệt thiên nhiên Long sơn khởi lên, vòng ôm một lần kín khắp Nước tụ trong xanh núi một hòn. Long lanh ánh trăng chiếu lại có tính phong bão hướng. Đất này phát khoa danh nhiều người hiển đạt. CHƯƠNG X THÁC LẠC PHÁP A. HƯỚNG DẪN PHẦN THÁC LẠC PHÁP Thác lạc là những gò đống ở sau huyệt hay sau long khi long hay huyệt đổi chiều. Nếu là đổi theo chiều ngang gọi là hoành long mà có gò đống đỡ sau thì gọi là Thác. Thác là gò từ thân long mọc ra đỡ sau long, còn Lạc là gò đống ở xa chạy đến đỡ sau thân long hay sau huyệt. Đất Hồi Long bắt buộc phải có Lạc và Hoành Long phải có Thác mới tốt. B. THÁC LẠC PHÁP Câu 1: Phàm địa hữu chân, nghịch, đa kết Phàm đất có chân nghịch thì phần nhiều hay kết. Câu 2: Hồi long, Hoành long, hữu Thác Sơn, Lạc Sơn dã. Hồi long, hoành long thì sau lưng thấp mỏng nên hồi, hoành phải có Thác Sơn (cho hồi long) và Lạc Sơn (cho hoành long). Câu 3: Địa hữu thác lạc đắc nhân trác việt chi tài, vưu nghiệm dã. Đất có Thác, Lạc thì sinh người có tài trác việt, rất ứng nghiệm vậy. HỒ MIÊU CÁCH Đệ thập đồ (10 HỮU ĐỆ THẬP CÁCH Chú vận: Mạch khởi hữu chí tả nhập cục, Hổ tiên đáo đường, Long hậu tiếp tục, nội ngoại loan hoàn, tả hữu khởi, phục. Thành thượng tinh phong giang loan bàn nhiễu; thủy hiện sơn trung, thử vi quý cách, nhiên đắc kỳ huyệt, phát phúc tậm giai, nãi thành quý cục. CÁCH THỨ 10 Lời chú: Mạch bên hữu tới bên tả nhập cục, trước tiên là Hổ sa tới minh đường, rồi sau lại đến Long sa tiếp tục. Trong ngoài ôm cong về, tả hữu có tinh phong cao đại khởi phục. Sông to uốn quanh, thủy hiện trong núi, là quý cục. Để huyệt tại long này sẽ phát phúc lâu dài. CHƯƠNG XI ÁN SƠN PHÁP A. HƯỚNG DẪN PHẦN ÁN SƠN PHÁP Án nghĩa là bàn giấy. Án ở trước huyệt như bàn giấy trước mặt người ngồi. Án còn có nghĩa là khách nếu gọi huyệt là chủ. Chủ khách phải tương kính nhau thì mới tốt. Án không nên quá cao hoặc quá thấp. Án nghiêm chỉnh tốt hơn án lệch lạc. Án cũng cho ta biết là huyệt đó phát mau hay lâu mới phát. Thường huyệt gần án phát mau hơn là huyệt có án tận đằng xa. B. ÁN SƠN PHÁP Câu 1: Địa hữu án như quân hữu triều Đất có án như vua có triều Câu 2: Huyệt vi chủ, án vi khách, hữu chủ hữu khách do hữu quân, hữu thần. Huyệt là chủ, án là khách, có chủ có khách cũng như có vua có tôi. Câu 3: Dục cầu kỳ chân hảo, viễn án bất như cận án Muốn cầu cho thật tốt, thì án xa không bằng án gần. Câu 4: Dục bất doanh háo, viễn triều bất như cận triều Muốn không doanh háo, triều xa không bằng triều gần. Câu 5: Chân giả do nghi, dĩ án vi cứ Thật giả (huyệt) còn ngờ thì lấy án làm căn cứ Câu 6: Hoặc viễn sơn hồi đầu vi khách ám Hoặc tự tuyệt thôi thân vi nội ám. Hoặc núi ở xa quay đầu về làm khách án. Hoặc ở huyệt ra làm nội án. Câu 7: Viễn án phát trì, cận án phát tốc, thử án chi. Án xa phát chậm, án gần phát mau đó là phương pháp của án. Nhược long hổ cận vệ chi chủ khách tương nghịch nãi thị giả xứ cao tề mi, đê ứng tâm đắc chi thị dã. Nếu được long hổ cộng vệ và huyệt chủ, án khách tương nghinh, nơi đó ta mượn chỗ cao bằng mi mắt, thấy ngang rốn là án được rồi đấy. HỔ NHẬP ĐÔNG LÂM CÁCH Thập nhất cách (11) HỮU THẬP NHẤT CÁCH Tố khởi Long kiên nhập hữu kiên Đáo đầu nhất tiết trực lai thiên Tu cầu hổ bạn bao quá huyệt Phú quý công danh thế thế truyền CÁCH THỨ 11 Tổ khởi từ vai long nhập vào vai hữu long, vào đầu một tiết rồi đi thẳng vào ngay cửa trời. Bên hổ nên bao quá huyệt. Phú quý công danh đời đời được truyền tụng. CHƯƠNG XII LUẬN VỀ PHƯƠNG VỊ QUÝ TIỆN LUẬN VÀ CÁC CỤC PHÁP A. HƯỚNG DẪN CHƯƠNG XII VÀ XIII Từ chương I đến chương XI nói về chi tiết căn bản để học khoa Địa lý. Từ chương XII này trở đi nói về tổng hợp các căn bản đó và thêm cả tổng hợp về lý khí nữa. Nói cách khác 11 chương trên nói nhiều về căn bản và về loan đầu và từ chương 12 này trở đi nói nhiều về tổng hợp và lý khí. B. LUẬN VỀ PHƯƠNG VỊ QUÝ TIỆN LUẬN VÀ CÁC CỤC PHÁP 1. Tam thai là Hợi, Chấn, Canh. 2. Lục tú là Cấn, Bình, Tốn, Tân, Đoài, Đinh đều là âm long, đều là quý nếu tầm được long đó. 3. Tý, Ngọ, Dần, Thân là Dương long. 4. Thìn, Tuất, Sửu, Mùi là Tứ Mộ Long 5. Càn lão dương, Khôn lão âm đó là tiện cách. 6. Giáp, Ất, Nhâm, Quý là Dương Long. 7. Tốn Tỵ (Âm) Thìn Tuất (dương) Sửu Mùi (âm) đều là tiện cách. 8. Bính Tý, Đinh Sửu, Mậu Dần, Kỷ Mão, Canh Thìn, Tân Tỵ, Nhâm Ngọ, Quý Mùi, Giáp Thân, Ất Dậu, Bính Tuất, Đinh Hợi: đó là Đại vượng tướng. 9. Canh Tý, Tân Sửu, Nhâm Dần, Quý Mão, Giáp Thìn, Ất Tỵ, Bính Ngọ, Đinh Mùi, Mậu Thân, Kỷ Dậu, Canh Tuất, Tân Hợi là Bàng vượng. 10. Giáp Tý, Ất Sửu, Bính Dần, Đinh Mão, Mậu Thìn, Kỷ Tỵ, Canh Ngọ, Tân Mùi, Nhâm Thân, Quý Dậu, Giáp Tuất, Ất Hợi: đó là chính Cô Hư. 11. Nhâm Tý, Quý Sửu, Giáp Dần, Ất Mão, Bính Thìn, Đinh Tỵ, Mậu Ngọ, Kỷ Mùi, Canh Thân, Tân Dậu, Nhâm Tuất, Quý Hợi: Đó là Bàng Cô Hư. 12. Mậu Tý, Kỷ Sửu, Canh Dần, Tân Mão, Nhâm Thìn, Quý Tỵ, Giáp Ngọ, Ất Mùi, Bính Thân, Đinh Dậu: Đó là Không Vong, Quan Sát. 13. Điểm huyệt nên thừa Vượng Tướng mà bỏ Cô Hư, tránh Không Vong. Thì sẽ tự nhiên phát phúc, có thể đạt được thần công. LONG QUẢI TÂY HOÀI Thập nhị cách (12) HỮU THẬP NHỊ CÁCH Tố khởi hữu kiên nhập long kiên Đáo đầu nhất tiết huyệt lai tiền Tu cầu tả bạn bao quá cục Vạn đại khoa danh thế thế truyền. CÁCH THỨ 12 Khởi tố ở phía hữu nhập vào vai long Vào đầu chỉ một tiết là tới ngay huyệt Nên cầu được tả sao bao quá cục đất. Sẽ phát khoa danh được đời đời truyền tụng. CHƯƠNG XIII TỔNG LUẬN CÁC CỤC PHÁP A. HƯỚNG DẪN TỔNG LUẬN CÁC CỤC PHÁP Đây là nói các cách thế của đất kết B. TỔNG LUẬN CÁC CỤC PHÁP - Phú Quý Thọ Khang Ninh đều là do quý địa chứ không phải là do lời nói suông. - Bần tiện nghèo khó cùng yểu, phần nhiều đều là do thiên cơ, há chẳng biết ru. Câu 1: Thủy triều cửu khúc, phú quý vạn chung. Sơn ứng tứ duy, vinh thăng chín trật. Thủy triều chín khúc, minh đường nước chan chứa: chủ giàu Tứ duy (Càn Khôn Cấn Tốn) có núi cao chót vót: chủ sang. Câu 2: Có thiên trụ cao, thọ như Bành Tổ Có thiên tâm phá thì chết non như Nhan Hồi. Thiên trụ là Càn, nếu huyệt phì và cao hậu ở Càn phương, cao ứng chủ thọ. Thiên tâm hậu đầu, kỵ nước chảy đi, bị chết non. Câu 3: Cấn thấy Bính: Giàu và sang Đoài thấy Đinh: Thọ và vinh Cấn chủ phú. Nếu Cấn sơn nhập huyệt, Bính thủy triều mà Tốn phương có sơn ứng là tốt. Đoài là tú long, nếu Đoài long nhập huyệt, có Đinh thủy triều mà Bính phương có sơn ứng là tốt. Câu 4: Chấn, Canh phấn phát về võ, nắm quyền hành trọng yếu tại Hợi Tốn. Canh Chấn phấn phát về võ, chính phương Nam tọa Khảm hướng Ly. - Hợi long Bính ứng, Tốn phương có núi cao - Tốn long, Hợi (thủy) ứng, Chấn Canh phương, có cờ trống lạ, Khảm long, Ly hướng, Chấn Canh ứng, là đất kết văn trước, võ sau, do đường khoa mục mà nắm chính quyền. Các phương Cấn, Tốn có tinh phong khởi đột, chủ làm võ tướng, cấp thống lãnh (Tư lênh). Câu 5: Thiên thị kiến Canh, trước phát văn sau phát võ. Bính thấy Tân, trước phát võ sau phát văn. - Thiên thị là Cấn - Cấn long Canh thủy ứng: Cấn chủ văn, Canh chủ võ cho nên trước phát văn sau phát võ. Bính long, Tân (thủy) ứng, Bính chủ võ chức và Tân chủ văn chương. Cho nên trước phát võ sau phát văn. Câu 6: Thiên Hoàng (Hợi) nhập Thiên thị (Cấn) quý khôn tả. Thái Ất (Tân) gặp Thiên Ất (Tốn) tiếng lừng vô địch. Thiên Hoàng là Hợi - Nếu long mạch khởi từ Hợi, chuyển sang Cấn mà tứ chính (Tý, Ngọ, Mão, Dậu) có cao phong ứng chủ con cháu giòng giống giàu sang thịnh vượng. Thái Ất là Tân - nếu Tân sơn lai Tốn thủy hoặc Tốn sơn lai Tân thủy ứng - chủ trúng khoa danh, thiên hạ vô địch vậy. Câu 7: Tốn Tấn đặc đạt: chu tủ (áo đỏ, tía) khắp triều Chấn Canh tú lệ: Giáp, Bính đầy nhà Câu 8: Tam cát lục tú long kết cuộc Tốn Tân có cao phong đẹp ứng về, hoặc bút vút từng mây: chủ về khôi khoa. - Phương Chấn, Canh có cờ trống. Hoặc ô núi cao tú lệ ứng về: chủ phát võ tướng. Câu 9: - Nhật mã kiến Thiên mã: danh chiếm Trạng Nguyên - Vị ngư kiến đại ngư: quan cư nhất phẩm. Nhật mã là nam phương, nếu có yên ngựa (Thiên mã) nổi cao lên, đứng tôn lập cho huyệt mà huyệt ngồi tôn nghiêm có tú khí thì phát Trạng Nguyên. Cụ Tả Ao nói: “Muốn cho con cháu Tam Khôi Phương Nam có bút, phương đoài có nghiên” Nghiên là “đại ngu” vậy, nếu phương Đoài có nghiên và phương Nam có bút lập nữa thì đỗ tam khôi (3 lần thì Hương, Hội và Đình đều đỗ đầu). Câu 10: Tên chiếm Khôi Nguyên chủ tam dương cao vọt - Chỗ ngồi lăng miếu - chỉ vì tư thế quân bình. Tân là Kim Long, gặp Bính, Ngọ, Đinh là tam dương Kim và Hỏa thành khí nên đỗ đầu thiên hạ. Tý, Ngọ, Mão, Dậu là 4 thế - huyệt ngồi đoan chính, 4 phương quân bình – con cháu phát khanh tướng. Câu 11: Hợi, Tốn tiếng là vua tôi Chấn, Canh như là vợ chồng Gặp Đinh, Giáp bảng thì tuổi trẻ có thanh danh gặp Đinh, Quý ứng chủ tuổi thọ thêm giàu có. Ngọ long, Đinh thủy lai triều, thiếu niên đỗ đầu. Đinh long mà Quý phương có sơn ứng - chủ giàu thọ. Câu 12: Càn, Đinh thì thọ, không nên tương kiến. Chấn, Hợi chủ quý chỉ muốn gặp nhau. - Càn (kim) Đinh (hỏa): Nếu Càn long gặp Đinh phương nên mỏng, thấp. Đinh long gặp Càn phương cũng nên mỏng, thấp. - Chấn long gặp Hợi thủy, hoặc Hợi long gặp Chấn thủy: tất chủ quý hiền vậy. Câu 13: Đất có tam kỳ: Vàng ngọc dùng xa xỉ Thổ có 4 thứ: tiền của thóc lúa không dùng hết - Phàm huyệt tốt - Hợi, Chấn, Canh (tam kỳ) có ứng thì giàu lớn – Phương Cấn Bính cũng vậy. - Phàm thổ hình, nhiều huyệt kết - Bốn thế có núi cao, quân bình chủ cự phú – cho nên mới nói như vậy. Câu 14: Một nam bao ba nữ, sở thuận về đâu thời theo đấy - Một nữ gặp ba nam, ở đâu thời lấy đó. Khôn, Ly, Đoài là nữ - hoặc nga mi hoặc bán nguyệt, hoặc như gương, như hốt, hoặc như liên châu (chuỗi châu) như đàn tỳ bà (thuộc về đồ dùng của đàn bà). Dậu long nhập huyệt, mà Khảm, Cấn, Chấn ba phương có tứ ứng thì trước phát nữ, sau phát nam. Chấn là trưởng nam Khảm là trung nam Cấn là thiếu nam Tốn là trưởng nữ Ly là trung nữ Đoài là thiếu nữ Vị nào ứng thì vị đó phát. Như là Cấn long, thứ đến Khảm Đoài cũng thế. Câu 15: - Dậu, Tốn phát con gái thông minh - Chấn canh phát con trai uy vũ. Câu 16: Làm quan ở ngũ phủ, do ở nhị thổ, nhị kim - Chức giữ ở lục bộ do ở khí tàng bát tướng nhị Kim là Càn Đoài, nhị Thổ là Khôn Cấn ứng về. Câu 17: Kho tàng thấy ở Cấn, Bính, con trai giàu địch quốc - Nga mi thấy ở Tý Ngọ, con gái đẹp khuynh thành. Câu 18: Càn nạp Giáp, Khôn nạp Ất đoán trước đắc thời. Tý ưa Ngọ, Thìn ưa Thân, bèn biết đắc thế - Càn long nạp Giáp thủy – Khôn long nạp Ất thủy. Tý long Ngọ hướng phát như lôi – Thìn long Thân hướng cũng như vậy. Đều là dương long, dương thủy sẽ chỉ phát một thời. Câu 19: Ngũ khí triều nguyên, cửa nhiều xe ngựa - Tứ Kim tú bão, nhà rực trâm anh Mộc ở Đông, Kim ở Tây, Hỏa ở Nam, Thủy ở Bắc, Thổ ở giữa làm huyện: Con cháu nhiều xe ngựa. - Tú Kim khởi ứng bốn phương - huyệt ở giữa: trâm anh gia truyền vậy. Câu 20: Thế tuy đại, huyệt bất cầu đại, chí ái nội tâm niêm khí. - Huyệt tuy tiểu, phúc phát bất thiểu, chân do nghịch thủy. Thế tuy lớn, huyệt không cần lớn, chỉ ưa nội tâm đĩnh khí. Huyệt tuy nhỏ, phát phúc không nhỏ, chính vì có nước nghịch lại. Luận câu 20: Từ mười dặm long mạch chạy lại, kết huyệt chẳng qua chỉ vừa chiếc chiếu, điều đáng ưa là nội đường nhỏ, vừa một người nằm nghiêng - trời mưa chứa nước đọng ở trong, cho nên nói là không cần đất rộng vậy. Huyệt tuy nhỏ bé, nhưng kho mạch gồm thu cả lại có cách nghịch hướng, thu tất cả nước từ đầu nguồn lại, con cháu giàu sẽ mua hết cả ruộng của thế gian. “Thụ tận nguyên đầu thủy Tử tôn mãi tận thế gian điền” Cho nên nói là phát phúc không nhỏ vậy. Câu 21: Mộc sinh văn sĩ, thổ vượng điền ngưu. - Đa kim đa ngọc, thủy sản anh hùng. Hình mộc phát văn sĩ, hình thổ vượng ruộng, trâu Kim nhiều vàng ngọc, thủy sản anh hùng. Luận câu 21: a. Mộc tính tĩnh xứ, khởi tiết tiết sinh văn chương chi sĩ b. Thổ tính trọc phì, mãn tiến điền ngưu chi phú c. Đa Kim tích ngọc, khai khẩu dĩ đấu lượng kim. d. Thủy kiến Kim, Thổ kiến Thủy đa xuất anh hùng. Có nghĩa là: Mộc tính yên lặng, nếu có đốt đốt mọc lên, gồ lên kết huyệt, táng vào sẽ sinh ra những bậc văn chương thi sĩ. Thổ tinh trọc phì, huyệt kết ứng sinh người giàu có, nhiều ruộng trâu. Hình Kim chứa nhiều ngọc, nếu huyệt Kim khai khẩu mà để được đất vào đó, thì giàu có thể lấy đấu đong vàng. Câu 22: Tam thai tiền, Tam thai hậu, Tể tướng côn khanh Thất diệu Đông, thất diệu Tây, Trạng Nguyên Phụ Bật. Tam thai trước, tam thai sau, sẽ phát tể tướng công khanh. Thất diệu phía Đông, thất diệu phía Tây, Trạng Nguyên Phụ Bật. Câu 23: Hình giải đệm, mở chiếu, đất đó rất quý. - Có tiền quan hậu quỷ, đất đó rất tốt. Câu 24: Phát phúc lâu dài, chẳc hẳn nước quanh huyền vũ Làm quan phú hậu, tất nhiên nước lượn thanh long Luận câu 24: Kiểu đât hồi long cố tổ, nước tiền đường chảy quanh về huyền vũ, mà đi, thì phát phúc không có dứt. Long ưa nghịch chiều, nếu nước chảy xuôi mà long đi ngược lên thì con cháu là quan mà giàu vậy. Câu 25: Cầm hình văn quan, yếu chi hình thế nhi luận. - Thú hình vũ sĩ, vưu đương tường mạch lạc nhi suy. Cầm hình phát văn quan, cần biết hình thế mà bàn. Thú hình phát vũ sĩ, nên tường mạch lạc mà suy. Câu 26: Đại thể xuất văn chương, do hồ thủy khẩu sinh quái thạch. - Thế thế liên khoa mục, tại hồ long thượng khởi tinh phong Đời đời xuất phát văn chương, do ở thủy khẩu sinh quái thạch Đời đời liền có khoa mục, do ở thân long khởi tinh phong. Luận câu 26: Kết tại Cấn, Hợi long, nhập Tốn, Tân, kỳ huyệt quỷ khí, hựu quái thạch trấn thủy khẩu, tầm thủy, trướng thủy, lạc như phù, tử tôn phú quý dã. Kết ở Cấn, Hợi long, nhập Tốn, Tân huyệt dã quý khí lại có quái thạch, trấn ở thủy khẩu, rút nước lên cạn, nổi quái thạch, nên con cháu giàu sang vậy. Câu 27: Thế thế liên khoa mục, kiến tú mạch kết cục, Long thân thượng tiết tiết sinh phong, như liên châu, đại đại tử tôn văn chương dã. Đời đời liền phát khoa mục, huyệt đã có mạch tốt kết cục. Trên minh long lại có đốt đốt cao lên như liên châu, nên đời đời con cháu phát văn chương vậy. Câu 28: Bạch ốc xuất công khanh, do hồ hồi long cố tổ. - Điền phu chí tể tướng, do hồ nghịch thủy nhập hoài. Bạch ốc xuất công khanh do ư hồi long đoái tổ. Điền phu làm đến tể tướng do ư nghịch thủy vào lòng. Luận câu 28: Tổ như phụ viễn hành, hồi long như tử, cửu vọng kiến nhi tự khoái, cố viết hồi long chi lực bạc năng linh bạch ốc chí công khanh Tổ như là cha đi xa, hồi long như là con trông lâu được nhìn thấy mà vui mừng, cho nên nói là sức hồi long tuy bạc nhược mà có thể khiến cho bạch ốc làm tới công khanh. - Huyệt tuy tại sơn, nhưng họa phúc tại thủy, thủy nghịch cấp phát, nhập hoài càng nhanh, cố viết sử điền dã chi nhân vi quan chi tể tướng. Huyệt tuy ở sơn họa phúc ở thủy. Nước nghịch chảy siết vào lòng càng chóng phát nên mới nói là được đất đó, dù là người điền dã cũng làm quan tới tể tướng vậy. Câu 29: Thổ nhập Thổ tử tôn đa hào phú Mộc nhập Mộc tử tôn đa khoa mục Thổ vào thổ con cháu nhiều hào phú. Mộc vào Mộc con cháu nhiều khoa mục. Luận câu 29: Cấn thuộc Thổ chủ phú, Thổ vượng điền ngưu Cấn long nhập thổ tinh, tác huyệt chi phú quý dã. Cấn thuộc thổ chủ về giàu, Thổ thì vượng về ruộng trâu. Cấn long vào Thổ tinh làm huyệt chủ về giàu sang vậy. Hợi thuộc mộc vi mộc thế, Hợi nhập cục tác mộc huyệt, đa văn sĩ dã. Hợi thuộc mộc làm mộc thế, Hợi nhập cục làm mộc huyệt, đấy là phát nhiều văn sĩ vậy. Hựu nhất thế long hành khởi tổ, đại thổ tinh chi thổ hữu huyệt, tứ hành như thử chi loại. Lại một thế cách nữa, long mạch đi khởi tổ từ đại thổ tinh đến thổ có huyệt. Bốn hành khác đều giống như thế. Câu 30: Nhất sơn nhất án túc dĩ tự vinh Nhất huyệt nhất đường túc dĩ trí phú. Một sơn, một án đủ sức tự vinh Một huyệt một đường, đủ sức làm giàu. Luận câu 30: a. Chung ứng nhất huyệt thanh kỳ nhất án, tuy vô long, hổ diệc vinh hoa. Chung ứng vào một huyệt, thanh kỳ ở một án, tuy không có long, hổ vẫn vinh hoa. b. Thổ tinh kết huyệt hướng đường, trữ thủy diệc trí phú dã Thổ tinh kết huyệt hướng đường chứa nước cũng có thể làm giầu vậy. Câu 31: Lư chiên trúng dự ngao đầu, cáo trục đa sinh phò mã Hình như lư chiên, đậu trúng ngao đầu, cáo trục sinh nhiều phò mã. Luận câu 31: a. Huyệt kết hồi long, tiền diện sơn như hoa cái, hậu huyệt như lư chiên, phát trạng nguyên. Huyệt kết hồi long, trước mặt có núi, hình như hoa cái (lọng hoa), ở sau huyệt, hình như lư chiên (rơi ngựa) phát trạng nguyên vậy. b. Phàm huyệt kết xứ, Nam phương Bính, Ngọ, Đinh, sơn hình như cáo trục đẳng lập, nam hôn công chúa dã. Phàm chỗ huyệt kết, ở Nam phương (Bính, Ngọ, Đinh) có núi hình như cáo trục, đứng chầu, con trai lấy được công chúa vậy. Câu 32: Sơn thôi thoái vận, tuần tiết nhi phát nhi tôn. Thủy khán nguyên đầu, kiến phương nhi tri chức nghiệp. Núi suy chuyển xuống theo đốt tiết mà phát con cháu. Nước xem từ đầu nguồn mà biết chức nghiệp. Luận câu 32: a. Sơn lai tự đầu giáng khởi, mỗi nhất tiết phát nhất đại, đốn khởi nhi suy. Núi đến từ đầu trở xuống, mỗi một đốt tiết phát một đời, theo chỗ thấp chỗ cao mà suy luận. b. Phàm thủy chi lai trường khê từ chữ giai hữu thăng, tự phát – Hà tự nhi luân giả như Tý phát nguyên thủy chủ thương mại, dĩ thử luận tha, khả loại suy. Phàm nước trường khê tới, quan hệ tự chỗ phát nguyên. Xem từ chữ gì mà định luận. Giá như nước phát nguyên từ chữ Tý thì chủ về buôn bán, cứ theo pháp đó mà suy luận rộng ra. Câu 33: Tam thai tiền, vương tự hậu, tiền hậu vinh xương Ngũ nhạc hậu, liên châu tiền, hậu tiền vinh hiển. Tam thai đằng trước, chữ vương đằng sau thì trước sau vinh xương. Ngũ nhạc ở sau, liên châu ở trước, thì sau trước vinh hiển. Luận câu 33: a. Thử địa sinh phong hầu, tử miếu thực. Kiểu đất này sống được phong hầu, chết được miếu thực (làm thần được cúng tế). b. Ngũ nhạc hậu, hậu ngũ tử giai vinh hiển đạt. Ngũ nhạc ở đằng sau, 5 con đều hiển đạt. c. Liên châu sơn kỳ giả, tiền phát liên châu. Liên châu sơn ở đằng trước thì trước phát liên châu. Câu 34: Thạch thất hoa khai, vọng chi nhi quý địa Thủy nguyên trước tĩnh, đắc chi nhi cát huyệt. Thạch thất hoa khai, nhìn đó mà biết là quý địa. Nguồn nước lặng im được chỗ đó mà làm huyệt tốt. Luận câu 34: a. Phàm thổ khởi, nhất cư huyệt dã, giai quy địa dã. Phàm đất gồ lên một chỗ mà làm huyệt, đều là đất quý vậy. b. Phàm thủy tính bản động, kiến tĩnh xứ giai hữu kết huyệt dã. Phàm nước tính vốn động, thấy chỗ nước im lặng thì có huyệt kết vậy. Câu 35: Nhất trùng bão khỏa nhất trùng khai. Tướng Tướng vương hầu tại thử gian. Tứ vi hoàn nhiễu tứ vi cố, công khanh phụ bật cư thử trú. Một trùng bao bọc, một trùng mở, tướng văn tướng võ vương hầu ở chỗ đó. Bốn bề quanh co bốn bề đoái lại, công khanh phụ bật đóng tại đó. Luận câu 35: a. Kết huyệt nội khai nhất trùng, ngoại cao nhất trùng, thủy khẩu tỏa mật, đích thị vương hầu chi địa Huyệt kết trong khai mở một trùng, ngoài lại cao lên một trùng, thủy khẩu thì đóng kín. Đúng là đất vương hầu. b. Tứ diện giai miên cung, loan cung bão, công khanh tất cư thử xứ Bốn mặt đều hình cánh cung, nằm ôm lấy, công khanh ở tại chỗ đó. Câu 36: Vị liệt đài giai, yếu đắc xích xà nhiễu ấn - Chức cư thanh quý, do hồ thanh long liên châu Ngồi ở đài giai, cần có xích xà nhiễu ấn. Chức ở thanh quý, do tại Thanh Long liên châu Luận câu 36: a. Như Cấn, Hợi kết cục Tỵ phương hữu ấn, như long bão hướng chủ quý dã. Như Cấn Hợi kết cục, Tỵ phương có ấn mà lại có long bão hướng, chủ quý vậy. b. Cấn, Hợi long kết cục, nhi long thân khởi tinh phong, chủ quý dã. Cấn, Hợi long kết cục mà trên thân long nổi tinh phong cũng chủ quý vậy. Câu 37: Dậu vị sơn cao tế ác khí, tĩnh thanh bất phi nhất hào. Mão phương thủy tụ án quang minh, long nhi cận, danh phương tứ hải. Dậu phương khí thanh tịnh, không bị xâm phạm mảy may. Mão phương nước tụ án quang đãng được gần long nhan (vua) tiếng lừng bốn biển. Câu 38: Mùi phương thê thiếp chi vị, sở ái giả trừu thanh. Mão phương quân vương chi vị, sở kỵ giả lăng áp. Mùi phương chủ thê thiếp, đáng yêu ở chỗ trong sạch. Mão phương chủ quân vương đáng kỵ là bị lấn át. Luận câu 38: a. Mùi phương chủ thê thiếp, như hữu viên sơn tú ứng, tất hữu hiền thê tú thiếp. Mùi phương chủ về thê thiếp, nếu có núi tròn thanh tú ứng về, sẽ có vợ hiền thiếp tốt. b. Mão phương nhật xuất chi minh quân, tượng như sơn cao lăng chi nội, vị chi lăng áp thái dương, nan thụ quân ân. Mão phương là chỗ mặt trời mọc, sáng sủa, tượng về vua, nếu ở trong có núi cao che khuất (che khuất mặt trời mọc) gọi là lấp che thái dương, khó mà được hưởng ơn vua. Câu 39: Càn, Khôn nhị vị đáo đầu, tuy phát phúc, chung niên bại tuyệt. a. Càn lão dương, Khôn lão âm, lưỡng long kết cục diệc phát nhất đại, bại tuyệt dã. Càn là lão dương, Khôn là lão âm, hai long này kết cục, cũng chỉ phát có một đời rồi bị bại tuyệt. b. Thìn, Tuất giai một khổ, long phát nhất đại nhi tử tôn bần cùng. Thìn, Tuất đều là mộ khố long, cũng chỉ phát được một đời rồi con cháu lại bần cùng. Câu 40: Tý, Ngọ, Dần, Thân, tứ dương long chi vị toàn Thìn, Tuất, Sửu, Mùi tứ mộ long chi sở ố. Tý, Ngọ, Dần, Thân là bốn dương long chưa được hoàn toàn. Thìn, Tuất, Sửu, Mùi là bốn mộ long thật đáng nên ghét. Luận câu 40: a. Tứ dương long phát nhất đại Bốn dương long chỉ phát được một đời. b. Tứ mộ long tuy phát phúc, tử tôn bại tuyệt. Bốn mộ long tuy phát phúc nhưng sau con cháu lại ngoan ngu bại tuyệt. Câu 41: Tiến nguyên đầu không, tài cao bất đệ a. Tốn, Tân không khuyết, tuy học quá nhận, ứng thí bất đệ Phương Tốn, Tân bị không khuyết, tuy sức học hơn người nhưng đi thi không đậu. b. Càn phương vô sơn, thâm thủy, niên hưởng bất kỳ Càn phương không có núi cao, lại nước sâu thì tuổi sống không được mấy. Câu 42: Đại sơn áp như thủy tinh tai hại tịnh chí. Mão tinh như nhật mã, hung họa tự tùy. Đại sơn áp tới thủy tinh, tai hại đều tới Mão sơn lấn sang nhật mã, hung họa theo tùy. Luận câu 42: a. Sửu phương hung vị, huyệt cư cận túc, hậu sơn lăng áp, tử tôn hung bạo, họa bại dã, nhật mã ngộ hỏa dã. Sửu sơn là hung vị, huyệt ở gần chân, hậu sơn lấn áp huyền vũ, con cháu hung bạo, họa bại vậy. b. Mão phương hữu sơn cư chi, chủ thống mục Mão phương có núi ở đó chủ về bị đau mắt. Câu 43: Thủy phóng Quỷ vị, nhi thê thiếp họa bại nan đào. Thủy phóng Ngưu phương, nhi tử tôn đạo tặc dị hư Thủy phóng ở Mùi vị, thê thiếp bị họa bại khó tránh. Thủy phóng ở Sửu phương, con cháu làm trộm cướp dễ hư Quý vị Mùi dã, Ngưu, Sửu phương dã. Quý là phương Mùi, Ngưu là phương Sửu. Câu 44: Đới đao, đới kiếm, bất nghi ư một khố chi vị Hân quần, vũ tụ, bất kham ư mộc dục chi hương Hình đới đao, đới kiếm không nên ở ngôi Mộ Khố. Hình hân quần vũ tụ, không nên ở nơi Mộc Dục. Luận câu 44: a. Mộ Khố: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi dã. Nhược kiến ư đao kiếm tại thử phương, tử tôn khởi đạo tặc dị tạo hình hại dã. Mộ Khố là 4 phương Thìn, Tuất, Sửu, Mùi nếu thấy có sơn hình như đao như kiếm ở phương đó thì con cháu sẽ khởi lên làm đạo tặc mà bị hình hại vậy. b. Mộc dục Tý, Ngọ, Mão, Dậu dã. Thử phương hữu hình như hân quần vũ tụ tất sinh hoa nguyệt chi nữ dã. Mộc dục là bốn phương Tý, Ngọ, Mão, Dậu – Nếu thấy phương đó có sơn hình như vén quần sốc áo tất sẽ sinh ra con gái trăng hoa vậy. Câu 45: Bình bát kiến ư Khôn, Thân tất sinh tăng ni. Án tinh kiến ư Dần, Thân tất sinh vu nữ Bình bát thấy ở Khôn, Thân tất sinh ra những tăng ni. Án tinh hiện ở Dần, Thân tất sinh ra bọn vũ nữ. Câu 46: Cao phong độc xuất ư nam phương, viên hình, khủng tai hình chi họa Cao phong trấn áp ư Thiên mẫu, khủng tân hạ đệ chi danh. Cao phong trơ trọi ở phương Nam, hình tròn, sẽ bị họa tai, hình sát. Cao phong trấn áp ở thiên mẫu e bị mang danh thì hỏng. Câu 47: Sửu, Mùi, Dần, Thân ngộ hồ lô, nhi phong tàn bệnh tật. Sửu, Mùi, Dần,Thân kiến bút, hoang hấn tụng từ. Sửu, Mùi, Dần, Thân gặp hình hồ lô, bị bệnh phong, tàn tật. Sửu, Mùi, Dần, Thân thấy hình bút, bị gây hấn kiện tụng. Câu 48: Minh đường can hạt, si bất đăng khoa Huyền vũ đê bạc, nhân vô thọ khảo Minh Đường khô khan, học trò không thi đỗ Huyễn vũ mỏng thấp, người không sống lâu Câu 49: Ngũ hành nhập miếu, tiểu cục thành nhân Tam tiêm sấm vân, sĩ nho cao trúng Ngũ hành ở chỗ miếu, vượng đất nhỏ cũng nên người. Ba cây bút chấm mây, học trò thi đỗ cao. Luận câu 49: a. Mộc cư Đông, Hỏa cư Nam, Kim cư Tây, Thủy cư Bắc. Giả như Đoài Kim mạch lai, Kim tác huyệt, ngộ nhất mộc cư Đông tại án, đắc miếu vượng, huyệt tuy tiểu diệc xuất công khanh. Ví như phương Đoài, mạch lai hình Kim, lại khai huyệt hình Kim. Có một hình Mộc ở phương Đông đến làm án, là miếu vượng nhất, dù đất nhỏ cũng phát công khanh. b. Giả như Tân, Dậu, Canh tam tiêm sấm vân, cát mạch nhập huyệt tọa nhi hướng chi, tất phát trạng nguyên dã. Nếu như ở phương Canh, Dậu, Tân có ba cây bút nhọn, vươn lên chấm mây, mà mạch cát. Phân kim tọa huyệt mà hướng đúng sẽ phát trạng nguyên. Câu 50: Nhất thốn thổ, nhất thốn Kim, tại hồ thủy tụ nhập hoài. Nhất Hỏa long, nhất Mộc án, thân sử Hàn lâm. Một tấc đất, một tấc vàng, cốt ở nước tụ vào lòng. Một hỏa long nhập huyệt gặp mộc làm án, ở chức Hàn Lâm vậy. Câu 51: Chiêu tặc quân tại Tý, Ngọ, do hồ Tý, Ngọ hoặc kiếm, hoặc kỳ, tất sinh hung tướng chi nhân. - Nhất thốn thổ, nhất thốn kim, tâm tư thiết thiết. Tam đẳng nhân, tam đẳng vật, tình tự v.v... Chiêu tặc quân tại Tý, Ngọ, do ư Tý Ngọ hoặc kiếm hoặc cờ, tất sinh ra người hùng tướng. Nhất thốn thổ, nhất thốn kim, lòng nhớ bâng khuâng. Tam đẳng nhân, tam đẳng vật lòng sầu man mác. Luận câu 51: a. Kim Mộc tương phản nhau Kim Hỏa tương cộng nhau Huyệt họa Mộc tinh, thấy trước án là Kim tinh sẽ khắc thể. Huyệt tọa Kim tinh cũng vậy. Kim huyệt mà nhập Hỏa chủ về tuyệt diệc. Mộc huyệt mà thấy Kim, tổn thương con cái. Câu 52: Cô sơn như lập tại Đông phương, thường xuất tăng ni đạo sĩ. Long mạch như loa tại Khôn, Thân thường xuất nghiêm sư, hòa thượng. Cô sơn như chiếc nón ở Đông phương, thường phát xuất tăng ni đạo sĩ. Mạch như ốc xoáy tại Tây phương thường phát xuất nghiêm sư, hòa thượng. Câu 53: Càn, Khảm, Cấn sinh viên ấn, phù pháp phong lưu Hợi, Mão, Mùi như bao tiểu Kim, y sư kinh nghiệm. Càn, Khảm, Cấn phương có hình án tròn sẽ phát thầy pháp, phong lưu Hợi, Mão, Mùi phươn có hình như bọc tiêu Kim phát thầy thuốc giỏi. Câu 54: Tiền sơn loạn y đố nữ loạn dâm, Long hổ giao nha vi đại sát. Phía đầu núi như loạn y sẽ phát gái ghen, loạn dâm. Tay Long Hổ giao nha (nhe răng vào nhau) là đại sát. Câu 55: Nẫu liên mật tinh nhi liên bạc mệnh Bát phong suy tảo, huyệt bán tử, bán ly Đệm liền như đào giếng, con cái luôn luôn bạc mệnh Tám phương gió thổi vào huyệt, nửa chết nửa phân ly. Câu 56: Tứ phương tiêm xạ huyệt, khởi tai khởi nghiệt. Bốn phương bắn nhọn vào huyệt, gây tai họa cho huyệt. Luận câu 56: Tả xạ trưởng nam tuyệt. Hữu xạ thứ nam vong Nhược nhiên đương diện xạ, trung tử định ly hương Bắn vào bên tả thì trưởng nam tuyệt, bắn vào bên hữu thì thứ nam chết, nếu bắn vào giữa, con giữa ly hương. Câu 57: Sa thủy nhược tà trắc, nữ nhân tham hoa sắc. Sơn tẩu Đông Nam, táng hậu nhất trương hung họa. Sa thủy nghiêng ghé, con gái trăng hoa. Núi chạy Đông Nam, sau khi táng bị một trận hung họa. Luận câu 57: Sa thủy do tán loạn, táng hậu tiền tài tán. Sa thủy tán loạn, chôn xong sẽ tán tài. Câu 58: Miếu xã ngộ táng huyệt, huyệt hạ nhân đinh tuyệt. Táng vào chỗ miếu xã, hạ huyệt xong sẽ bị tuyệt con cái. Câu 59: Tiền hậu kiến tước phá huyệt, hạ chiêu tai họa. Phía trước phía sau thấy hụt, phá, huyệt hạ rước lấy tai vạ. Câu 60: Long Hổ đoạn thủy xuất, định mãi tận điền trạch. Minh Đường thủy phản khuynh, tử tôn ly hương bại. Long Hổ đoạn thủy chảy ra, nhất định phải bán hết ruộng đất. Minh đường nước hắt nghiêng trở ra, con cháu phải xa làng, thất bại. Câu 61: Diện tiến kiến xạ Tào sát nhân bất dụng lực. Khảm úy Thìn nhi Khôn úy Mão Chấn kỵ Thân nhi Tốn kỵ Dậu Càn ố Ngọ nhi Đoài ố Tỵ Cấn kỵ Dần nhi Ly kỵ Hợi Trước mặt thấy mũi nhọn, giết người không dùng sức. Khảm sợ Thìn, Khôn sợ Mão Chấn kỵ Thân, Tốn kỵ Dậu Càn kỵ Ngọ, Đoài kỵ Tỵ Cấn kỵ Dần, Ly kỵ Hợi Luận câu 61: Khảm long kết huyệt nhi Thìn thượng hữu nha đao. Long kiến thủy giai hung họa chi triệu dã khả loại thử nhập cát dã. Khảm long kết huyệt mà trên cung Thìn có gò đống, núi non hình nha đao là hung họa. Long kiến thủy là Khảm long mà hướng Thìn có nha đao. Đây là phép Long Thượng bát sát. Xin xem Phụ Lục I cho rõ. Câu 62: Đinh Canh Khôn thượng thị Hoàng Tuyền. Ất Bính tu phòng Tốn thủy tiên. Giáp Quý hướng lai hưu kiến Cấn Tân Nhâm thủy lộ phạ đương Kiền Như sơn mạch cốt nhục đoạn thương, mạch tuyệt khí, tử tôn bại tuyệt dã. Đinh, Canh thì Khôn là Hoàng Tuyền. Ất Bính không nên phóng thủy ở Tốn. Giáp Quý hướng lai, lo thấy ở Cấn Tân, Nhâm thì sợ đường thủy ở Càn Nếu sơn mạch cốt nhục bị đoạn khí, con cháu bị bại tuyệt vậy. Lưu ý: Muốn biết rõ hơn ở câu 62 xin xem phụ lục II nói về Bát Đại Hoàng Tuyền. Câu 63: Thủy phá Thái Dương, dâm trọc chi thái tự khởi. Thủy phá Cấn vị, bần phạp chi thán tự sinh. Thủy phá Thái Dương, thói dâm trọc tự khởi. Thủy phá Cấn vị, lời than nghèo tự sinh Luận câu 63: a. Thái Dương: Tý, Ngọ, Mão, Dậu kỳ thủy tự Dậu phóng Mão hoặc chuyển Mão phóng Dậu Tý Ngọ diệc nhiên cách giai dâm thái dã. Thái dương là Tý, Ngọ, Mão, Dậu – Dòng nước từ Dậu phóng ra Mão, hoặc chuyển Mão phóng ra Dậu. Tý, Ngọ cũng thế, đều là cách dâm thái vậy. b. Cấn sinh phú, nhược Cấn thủy phi khứ giai bần tiện dã. Cấn chủ phú, nếu cấn thủy bị chảy đi đều là cách bần tiện vậy. Câu 64: Thủy lưu quy bối, cơ hàn khất cái Sơn tọa cô đơn, tử tôn nan kế Nước chảy lưng rùa, bị đói rét ăn mày Sơn ngồi cô đơn, con cháu khó bề nối dõi. Luận câu 64: Tọa tuyệt diện tiền, thủy như quy bối hoặc huyệt lộ hình Thủy như quy bối, tử tôn tất bần, khất cái. Cô đơn giả, sơn tân cận, hoặc bạc điền, đê điền, lưỡng biên vô hậu, khí vô tàng phong, tất tuyệt tự dã. Tọa tuyệt chỗ trước mặt như lưng rùa, con cháu nghèo, phải ăn mày. Cô đơn là núi gần sát hoặc bạc điền, đê điền ở hai bên không có hậu khí, không chắn gió tất bị tuyệt tự vậy. Câu 65: Đại để sơn thủy tụ chung, khí tú thanh, khuất khúc vi cát, trùng sơn xích thổ, băng phá, bạc độc vi hung. Đang thủy xu cát tỵ hung dĩ toàn kỳ thiện dã. Đại để sơn thủy tụ được tú khí, thanh thủy, khuất khúc là tốt. Còn trọc sơn, xích thổ, lở vỡ bạc độc là dở. Phải chọn sơn thủy sao cho xu cát tỵ hung để cho sự tốt lành được toàn vẹn. HŨU THẬP TAM CÁCH Tổ phát tả kiên nhập hữu kiên Sơn cao Huyền Vũ thủy chi huyền. Nhật minh nguyệt chiếu đường triều nội Thử địa vinh hoa phú quý toàn. CÁCH THỨ 13 Mạch khởi Tổ từ vai tả nhập vào vai Hữu Long, Núi Huyền vũ cao dày, thủy chảy như chữ chi, chữ huyền. Minh đường trong sách, được nhật nguyệt chiếu minh. Đất phát vinh hoa phú quý toàn vẹn. CHƯƠNG XIV NHẬT KỲ SƠN THỦY HỢP CÁT PHÁP A. HƯỚNG DẪN PHẦN NHẬT KỲ SƠN THỦY HỢP CÁT PHÁP Chương này cho biết cách tính thời gian kết phát trên 2 phương diện: Thể và Dụng. Thể là do hình thế đất mà biết, còn Dụng là do lý khí mà biết. B. NHẬT KỲ SƠN THỦY HỢP CÁT PHÁP Phép ấn định thời gian kết phát và sơn thủy hợp pháp 1. Long thủy nạp Giáp a. Càn long nạp Giáp thủy b. Khảm long nạp Quý thủy c. Cấn long nạp Bính thủy d. Chấn long nạp Canh thủy e. Tốn long nạp Tân thủy g. Khôn long nạp Ất thủy h. Đoài long nạp Đinh thủy Nạp Giáp như trên đây là hợp pháp tốt. 2. Bức và Khoáng a. Phàm xuất sơn bộ huyệt: - Nội bách bộ vi bức - Ngoại bách bộ vi khoáng Phàm xuất sơn bước tới huyệt: - Trong trăm bước là bức bách. - Ngoài trăm bước là khoáng đãng. b. Thủy tựu huyệt - Nội bách bộ vi cấp, - Ngoại bách bộ vi khoáng Từ nước tới huyệt: - Trong trăm bước là cấp - Ngoài trăm bước là hoãn. Về núi thì 3 năm đi một bước, nước mà thuận cũng đi một bước. Bởi vậy nên: Nghịch là cấp. Thuận là hoãn. 3. – a). Kiên, trì, động, cấp, tĩnh, thả: - Kim tính kiên - Thổ tính trì Sơn thủy cận cấp, vượng tướng = 18 chia 2 thành 9 nên 9 năm đã phát phúc. b). Hựu giả như Hỏa tính cấp, hỏa long hữu hỏa hình, thu tác huyệt, hỏa hướng, nghịch sa, nghịch thủy, tứ thế giai vượng tướng. Bất tất luận thiên địa, chi số, chiêu táng, mộ phát. Giả như Hỏa tính cấp, hỏa long hỏa hình nhận hỏa hướng: Nghịch sa là thủy, 4 thế đều vượng tướng. Bất tất phải luận về thiên địa số, sớm táng chiều phát vậy. c). Hựu giả như thổ tính trì, thổ long hựu thổ huyệt, giai sơn khoáng thuận. Cấn long, Canh hướng, như Cấn 7, Canh 8 = 7 + 8 = 15. Thập ngũ niên phát phúc dã. Hưu tù bội thập ngũ thập niên phát phúc dã. Lại giả như Thổ tính tri, thổ long lai thổ huyệt, sơn đều khoáng thuận. Nếu lập Cấn long, Canh hướng: Cấn 7, Canh 8 = 7 + 8 = 15, tức trong 15 năm sẽ phát phúc vậy. Nếu hưu tù thì 50 năm sau mới phát. 4. – a). Càn = nhất Đoài = nhì Ly = tam Chấn = tứ Tốn = ngũ Khảm = lục Cấn = thất Khôn = bát Giáp, Tỵ, Tý, Ngọ = 9 Ất, Canh, Sửu, Mùi = 8 Bính, Tân, Dần, Tân = 7 Đinh, Nhâm, Mão, Dậu = 6 Mậu, Quý, Thìn, Tuất = 5 Tỵ, Hợi = 4 b. Nghịch thủy, nghịch án, tả hữu tiền hậu cận giả nhi vượng tướng Viễn thủy cận án, nội mật ngoại kháng vi cát. Khuynh giả vi hưu tù. Vượng tướng giảm bán. Hưu tù bội thập. Nghịch thủy nghịch án, tả hữu trước sau, gần là vượng tướng. Thủy xa án gần, trong mật ngoài khoáng là cát. Nghiêng là hưu tù. Vượng tướng giảm đi một nửa. Hưu tù thì tăng lên gấp mười. c. Giả như Tý long, tác Ngọ hướng, sơn thủy cận cấp. Tý, Ngọ số cửu - Vượng tướng giảm bán giả Nhị cửu thập bát, cửu niên phát phúc dã. HỒI LONG CỐ TỔ CÁCH Thập tứ cách (14) HỮU THẬP TỨ CÁCH Hậu tiền sơn thủy các phân hành Chỉ thị sơn đầu chủ khách nghinh Long mạch hà tu cầu địa các Huyệt thành bất tất hợp thiên hình Hữu tình bất việt sơn hồi bão Sa xứ vô qua địa thản binh. CÁCH THỨ 14 Trước sau sơn thủy khéo phân hành. Chỉ ở sơn đầu chủ khách nghinh. Long mạch cần chi cầu địa các Huyệt thành chẳng hẳn hợp nguyên Hữu tình bởi tại sơn hoài bão Đâu phải không sa, (tài liệu photo mờ) Giả như Tý long, Ngọ hướng. Tý + Ngọ = 9 + 9 = 18 d. Thả khả suy thứ Hựu như: Tý dữ Sửu hợp. Ngọ dữ Mùi hợp. Dần dữ Hợi hợp Thìn dữ Dậu hợp Mão dữ Tuất hợp Tý dữ Thân hợp Tý số cửu Sửu tiên đáo cận ứng - Tự táng lục, thất niên vi bị cửu ngộ Sửu niên diệc phát phúc ư lục, thất niên dã. Ngoài ra có thể suy ở đây mà biết: Tý hợp Sửu Ngọ hợp Mùi Dần hợp Hợi Thìn hợp Dậu Mão hợp Tuất Tỵ hợp Thân. Số của Tý là 9 - Sửu tới trước sẽ ứng gần hơn. Kết quả: Từ lúc táng tới sáu, bảy năm (chưa tới 9 năm) mà gặp năm Sửu cũng phát phúc (năm thứ 6 thứ 7 vậy). e). Tha khả loại suy hựu giả như Ly Long tác Đoài hướng. Ly tam, Đoài nhị, Cộng thành ngũ. Sơn thủy cận vượng = nhi niên báo phát phúc. Hưu ngộ niên lưu sơn cốc ứng vạn niệm Ngoài ra có thể suy luận theo từng loại: Ly long = 3, Đoài hướng = 2 (2 + 3 = 5) Nếu sơn thủy cận, vượng thì hai năm rưỡi phát phúc, lại gặp năm có sơn cốc ứng vào thì càng ứng nghiệm. CHƯƠNG XV CẦU TỰ PHÁP A. HƯỚNG DẪN PHẦN CẦU TỰ PHÁP Phần này có liên quan đến thủy pháp. Các cụ để riêng một chương là vì xưa kia khoa địa lý rất chú trọng đến nhân đinh B. CẦU TỰ PHÁP 1. Kim trường sinh tại Tỵ 2. Mộc trường sinh tại Hợi 3. Hỏa trường sinh tại Dần 4. Thủy trường sinh tại Thân Đồ tự tam giả bối vượng nghinh sinh Giả như: 1. Dần Giáp Mão Ất thuộc Mộc. 2. Tỵ Bính Ngọ Đinh thuộc Hỏa 3. Canh Dậu Tân thuộc Kim 4. Hợi Tý Quý thuộc Thủy 5. Thìn Tuất Sửu Mùi Khôn Cấn thuộc Thổ. 6. Càn Đoài thuộc Kim 7. Chấn Tốn thuộc Mộc 8. Ly thuộc Hỏa 9. Khảm thuộc Thủy. Câu 1: Tốn long nhập thủ - huyệt đắc Hợi thủy nhập hoài vi sinh thủy đáo đường, tất vượng tử tôn. Tuy nhiên, Mộc hữu dương mộc, âm mộc. a. Tự Hợi chuyển Mão nhập, huyệt vi dương mộc Trường sinh tại Hợi. b. Tự Ngọ chuyển Mão nhập, vi âm mộc: Trường sinh tại Ngọ Dương thuận, Âm nghịch. Tử xứ phùng sinh. Câu 2: Như Canh, Dậu, Tân thuộc Kim, Trường sinh tại Tỵ, tử xứ tại Tý a. Mạch tòng tả lai, chuyển Kim nhập huyệt, Trường sinh tại Tỵ. b. Nhược tòng hữu lai, Trường sinh tại Tý. Như tại tả lai vi dương, thuận hành. Như tại hữu lai vi âm, nghịch hành. c. Trường sinh, Mộc dục, Quan đới, Lâm quan, Đế vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng. d. Tọa hướng sử: sinh vượng, nghi lai Tử, tuyệt nghi khứ e. Vưu ái giả, Thanh long báo tử Vưu nghiêm giả, Bạch hổ vệ tôn. Tử xứ phùng sinh: Như Canh, Dậu, Tân thuộc Kim Trường sinh ở Tỵ - Tứ xứ ở Tý. a. Mạch tự tả lại, chuyển sang Kim vào huyệt, Trường sinh ở Tỵ. b. Nếu mạch theo bên hữu lại: Trường sinh ở Tý. Nếu từ tả lại là dương thuận. Từ hữu lại chuyển sang là âm nghịch. c. Trường sinh, Mộc dục, Quan đới, Lâm quan, Đế vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng. d. Tọa hướng nên khiến cho Sinh, Vượng lai và nên bỏ Tử, Tuyệt. e. Đáng yêu nhất là Thanh Long bão tứ. Đang nghiêm nhất là Bạch Hổ vệ tôn. Câu 3: Mạch hành sinh khí, đắc sinh thủy đáo đường. Hoặc hữu Thanh Long bão tử phong, Bạch Hổ bão tử phong – vi bão tử vệ tôn. Mạch hành sinh khí. Được sinh thủy đáo đường, hoặc là Thanh Long ôm con ẵm cháu. Câu 4: Hoặc Thác Lạc sơn tại hậu vi thiếu tôn phù - hậu đích nghiệm dã. Hoặc Thác lạc sơn ở sau, đây là nghiệm và có cháu nhỏ dắt ở sau vậy. Câu 5: Sinh nam cầu Khảm, Cấn Chấn Sinh nữ cầu Tốn, Ly, Đoài Mạch Khảm, Cấn, Chấn vi tam nam Mạch Tốn, Ly Đoài vi tam nữ Hựu đắc sinh thủy đáo đường, đa sinh nam nữ dã. Muốn sinh con trai thì cầu mạch ở Khảm, Cấn, Chấn. Muốn sinh con gái thì cầu mạch ở Tốn, Ly, Đoài. Khảm Cấn Chấn là tam nam Tốn, Ly, Đoài là tam nữ Lại được sinh thủy đáo đường sẽ sinh nhiều con trai, con gái vậy. 1. Kim, Trường sinh tại Tỵ - Mộc trường sinh tại Hợi - Hỏa trường sinh tại Dần - Thủy trường sinh tại Thân. Muốn cầu tự thì phải bối vượng nghinh sinh. Tỷ như : Dần, Giáp, Mão, Ất thuộc Mộc, Tỵ, Bính, Ngọ, Đinh thuộc Hỏa, Canh, Dậu, Tân thuộc Kim, Hợi, Tý, Quý thuộc Thủy. Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Khôn, Cấn thuộc Thổ. Càn Đoài thuộc Kim. Chấn, Tốn thuộc Mộc. Ly thuộc Hỏa, Khảm thuộc Thủy. Tốn Mão long vào đầu, huyệt được Hợi thủy vào lòng là sinh thủy đáo đường. Tất sẽ vượng con cháu. Tuy nhiên Mộc có dương mộc, có âm mộc. Tự Hợi chuyển qua Mão vào huyệt là Dương Mộc, Trường sinh tại Hợi. Tự Ngọ chuyển qua Mão vào huyệt là Âm Mộc: Trường sinh ở Ngọ, Dương thuận, Âm nghịch. HỒI LONG CỔ TỔ Thập ngũ cách (15) HỮU THẬP NGŨ CÁCH Tổ phát cao phong cổn cổn lai Hùng Thư tả hữu lập môn đài Đường trung hữu thủy loan như nguyệt Án ngoại đường lai tịnh liệt thai Nam trù khổn ngoại bình doanh thượng Nữ quản cung trung phượng các khai Nhược kiến ngoại sơn phong trĩ lập. Vinh hoa phú quý đích vô sai. CÁCH THỨ 15 Tổ phát cao phong cuộn cuộn lai, Thư, Hùng hai phía lập môn đài Trong đường, án nhỏ cong như nguyệt Ngoài lại tam thai án thứ hai. Nam vào triều trước ngồi dinh thượng Nữ nhập cung sau ngự các đài. Nếu được núi ngoài cao đại lập Vinh hoa phú quý chẳng còn sai CHƯƠNG XVI ÂM DƯƠNG LUẬN A. HƯỚNG DẪN CHUNG VỀ ÂM DƯƠNG LUẬN VÀ ÂM DƯƠNG TỌA HƯỚNG LUẬN Phần này luận về âm dương là căn bản về khoa địa lý để thêm kiến thức cho các mục khác. Thật ra không thể nói hết về âm dương luận ở đây. Cho nên ta thấy nó có nhiều chỗ giống như ở các chương 12 – 13 – 14. B. ÂM DƯƠNG LUẬN Câu 1: Thiên địa vạn thù, âm dương nhị lý Trời đất chỉ thuộc về âm dương hai lẽ. Câu 2: Khinh thanh vi thiên, trọng trọc vi địa Mật tiểu vi âm huyệt, khoan đãi vi dương huyệt. Nhẹ và trong sáng là trời, nặng nề và đục là đất, chặt chẽ và nhỏ bé là âm huyệt, rộng lớn khoảng khoát là dương huyệt. Câu 3: Nhân đồ ngôn âm cung vô di ư dương cung, thử bất tri âm hữu di ư dương huyệt. Người ta chỉ biết âm cung không khác với dương cung, nhưng không hiểu âm huyệt có khác với dương huyệt. Câu 4: Dương cơ giả, nghi cao đại, khoan hình, phồn thế, hoặc nghịch thủy nhất phương, hoặc duyên giang nhất khu, giai tháp đại hậu khí chung tụ cư chi. Vì dương cơ nên cao lớn, khoan hình, hệ bởi thế đất, hoặc nghịch thủy một phương, hoặc ven sông một khu, đều phẳng, rộng hậu khí chung tụ ở đó. Câu 5: Ám địa kết, bàng nhân dĩ đắc Dương địa kết, nhân sở nan tri Âm địa kết người bên cạnh dễ được, Dương địa kết người ta khó biết. Câu 6: Âm địa tiểu tiểu hữu chi, bàng cận chi nhân dĩ đắc Chí nhi âm trạch đa cầu nghịch thủy, nghịch sơn - Tiện táng, tiện hành, nhược dung kết khí tụ dã. Âm địa nhỏ bé, chỗ nào cũng có nên người gần bên dễ được còn đến âm trạch, phần nhiều phải nghịch thủy, nghịch sơn, mà táng, mà làm, nếu dung kết thời khí tụ vậy. Câu 7: Dương địa kết thiên địa chi khí tụ chung ư thử, nhân sinh cư chi, kế thế đinh tài vượng, thả nhân sinh dương địa giai thụ thiên địa chi khí. Dương địa kết thì khí của trời đất chung tụ ở đấy, người sống ở đây được đời đời đinh tài đều vượng. Vả dĩ người sinh ở dương địa đều chịu khí của trời đất. Câu 8: Cư xử xuất nhập đắc thiên địa dung kết chi xứ tất hưởng thiên địa chi phúc, cố thế nhân nan cầu dương cơ dã. Cư xử xuất nhập được chỗ trời đất dung kết, tất nhiên được hưởng phúc của trời đất. Bởi vậy nên thế gian khó tìm được dương cơ vậy. Câu 9: Tự cổ ư kim thôn ấp đa thừa tiện hành chi thế, thiếu dong kết chi địa, nhược mỗ đắc vượng mạch, thôn ấp, nhất sơn hồi, hựu nhất thủy loan diệc phát thắng ư ấp trung Tự cổ chí kim, ở nơi thôn ấp phần nhiều là tùy theo cái thế tiện hành, chứ ít có đất dung kết. Nếu nơi nào được chỗ mạch vượng, trong thôn ấp có một ngọn núi hồi về, lại có một dòng nước bọc quanh, cũng sẽ phát hơn ở trong ấp. Câu 10: Cố viết, nhất thôn, nhất ấp, chung diệc hữu phú hữu bần chi dị - Phù sinh ư thổ, phản ư thổ, sự giai thổ, cố nhất thổ vi trọng. Dương trạch bẩm sinh chi khí vưu trọng, cố nhất dương thắng thập âm dã. Cho nên mới nóilà cùng ở trong một thôn ấp, mà cũng có người giàu người nghèo khác nhau, vì rằng sinh ở đất, mọi việc đều ở trong đất, co nên nhất đất là trọng. Dương trạch là khí bẩm sinh lại càng trọng. Bởi vậy nên một Dương hơn mười Âm vậy. NGỌA TỈNH DIỆN CÂU HƯỚNG NGUYỆT THỦY ĐỀ CÁCH Thập lục cách (16) HỮU THẬP LỤC CÁCH Tổ tông thực thực tổng thiên trùng Long mạch thô ngang nhất lý tòng Nhất tiết hoành lai nhi nhập cục Lưỡng sơn triều đối, lập Thần đồng Long cung tiên đáo hồi tây cá Hổ bạn hoành lai tất bảo long Ngoại tỉnh diện câu nhi hướng nguyệt. Tất nhiên phú quý nữ nam đồng CÁCH THỨ 16 Tổ tông cao đại, núi muôn trùng Long mạch thô ngang, một dặm vòng Một đốt quay ngang rồi nhập cục Hai gò triều đối lập Thần đồng Tay Long tới trước vòng Tây, bão Hổ lại vòng qua bão lại Long Huyệt giếng, tiền cong, ôm án nguyệt Tất nhiên vinh hiển nữ nam cùng CHƯƠNG XVII ÂM DƯƠNG TỌA HƯỚNG LUẬN A. ÂM DƯƠNG TỌA HƯỚNG LUẬN 1. Chấn, Canh, Cấn, Bính, Tốn, Tân, Đoài, Đinh, Tỵ, Sửu, Hợi, Mùi = toàn Âm Long Chấn, Canh, Cấn, Bính, Tốn, Tân, Đoài, Đinh, Tỵ, Sửu, Hợi, Mùi toàn là Âm long. 2. Càn, Khôn, Khảm, Ly, Thân, Tý, Thìn, Dần, Ngọ, Tuất vì Dương Long dã. Càn, Khảm, Ly, Thân, Tý, Thìn, Dần, Ngọ, Tuất là Dương long vậy. 3. Âm Long tác âm hướng, thuần âm bất phát Âm long làm âm hướng, thời thuần âm không phát. 4. Dương long tác dương hướng, thuần dương bất sinh. (Tài liệu mờ) Dương long làm dương hướng thời thuần dương không phát. Như Hợi long (âm long) làm Bính (âm hướng) thì lúc tọa huyệt phân Kim phải gia sang Ngọ (Dương) nửa phân, thừa lấy vượng, tướng, khiến cho hướng không có âm. Như Tý Long (Dương long) làm Ngọ hướng (dương hướng) thì lúc tọa huyệt phân Kim phải gia sang Mùi nửa phân, khiến cho hướng không cô dương. Ngoài ra đều theo như vậy. CHƯƠNG XVIII TỔNG LUẬN ĐẠI ĐỊA CẤP CHƯ HÌNH THỂ CÁCH A. HƯỚNG DẪN PHẦN ĐẠI ĐỊA CẤP CHƯ HÌNH THỂ CÁCH Phần này nhấn mạnh về hình thể các đất lớn trên hai khía cạnh Thể (loan đầu) và Dụng (lý khí). B. TỔNG LUẬN ĐẠI ĐỊA CẤP CHƯ HÌNH THỂ CÁCH Tổng luận đại địa cấp chư hình thể cách Đại huyết mạch Câu 1: Đệ nhất: Cấn Hợi long nhi dĩ Long hoặc hành tọa tinh, hoặc khởi nghịch hoa tinh, hoặc lâu đài bảo điện tinh. Đệ nhất chỉ có Cấn, Hợi long mà thôi. Long hành hoặc tọa tinh, hoặc khởi nghịch hoa tinh, hoặc lâu đài bảo điện tinh. Câu 2: Hoặc triều thiên mạo tinh Hoặc đại vương sơn Hoặc tiên phi vũ sơn Hoặc triều thiên mạo tinh, hoặc đại vương sơn, hoặc tiên phi vũ sơn Câu 3: Hoặc cửu tinh, củng bắc cực tinh sơn, Hoặc lực sĩ phù giá sơn phát nhi lai. Hoặc trường giang, trường hồ, đại khê, đại uyên dẫn mạch nhi lai Hoặc cửu tinh củng bắc cực sơn, hoặc lực sĩ phò giá sơn phát mạch mà lại, hoặc là trường giang, trường hồ, sông lớn, đầm lớn dẫn mạch mà tới. Câu 4: Thiên sơn tống mạch, phi thủy diễu thành Ngàn nước dẫn mạch, nước chảy quanh thành Câu 5: Tường kỳ chi phái Hiểu tường về là phái của nó Câu 6: Thập lý nội vi nội thế, thập lý ngoại vi ngoại thế Trong mười dặm là nội thế, ngoài mười dặm là ngoại thế. Câu 7: Kiến vi vạn thần khể cứu đầu tảng, vạn sơn hồi đầu Thấy có vạn thần lạy cục trân, vạn sơn quay Câu 8: Huyệt tọa hoa cái, huyệt tọa ngự bình, đoan trang, tôn nghiêm, nội trướng mạch tàng, thân ngoại lực sĩ thị lập. Huyệt tọa hoa cái, huyệt tọa ngự bình, đoan trang tôn nghiêm, trong có trướng mạc tàng chân, ngoài có lực sĩ đứng hầu. Câu 9: Thủy khẩu chấn bắc thần, đường tiền dung vạn mã. Thủy khẩu chấn bắc thần, trước minh đường dung được vạn mã. Câu 10: Hoặc bách chiết, thiên chiết, hoặc cửu khúc đương triều ư minh đường, thử đại địa dã. Hoặc trăm ngàn chỗ quanh khúc chiết, hoặc chín khúc triều về minh đường, đấy là đại địa vậy. Câu 11: Tường kỳ thành tiết long lai, tiên tri thành bại. Giả như huyệt tại liên diệp, mạch bát tiết ngộ dậu cô hư, mão vi hữu trừng thanh uyên thủ, thủy tụ hậu, phát ra nhi tuyệt. Biết rõ đốt nổi lên của long mạch, lại sẽ thấy rõ thành bại. Giả như huyệt ở liên diệp, mạch nổi tám đốt tiết qua Dậu, cô hư. Mão có vực nước trong sạch tu đằng sau, có phát sinh mà cũng bị tuyệt. Câu 12: Hoặc long hổ tam phiến tà phản, tất tam thế nghịch thần mưu phản nhi vong Hoặc long hổ có ba chỗ tà phản, tất nhiên bị ba đời nghịch thần, mưu phản mà suy vong. Câu 13: Hoặc long ngoại đệ thập phiến lưỡng đầu, kình tương đấu trí, thập đại huynh đệ tương sát nhi tiết. Hoặc ngoại long đốt thứ mười có hai đầu kình đầu nhau, thì tới đời thứ mười, anh em tàn sát lẫn nhau mà thất bại. Câu 14: Hoặc chuyển Mão nhi phóng Dậu, nhân dâm tà nhi thất vị. Hoặc chuyển qua Mão mà phóng ra Dậu, thì nhân dâm mà mất chức vị Câu 15: Nhược bình dương chi địa, dị tường, khứ sơn nhi sinh long hình, mạch thủy dĩ khu huyệt khởi phù kiệu liễm chi hình; nhất chủ sơn tự khách sơn nghinh. Như ở đất bình dương thì dễ thấy rõ, cát đùn núi như hình sinh long, mạch dư dồn cao lên huyệt như hình phò kiệu, một chủ sơn đến đón khách sơn. Câu 16: Hữu thủy triều nhiễu tả sơn loan bão, ngũ tiết mạch, ngũ phong yêu phát ngũ đại. Nước bên hữu lượn quanh, nước bên tả vòng ôm, mạch năm đốt tiết như năm sườn núi sẽ phát năm đời. Câu 17: Nhược thủy phóng tả hữu tốc huyệt Nếu nước phóng ra tả hữu thì chóng tuyệt. Câu 18: Nhiên đại địa bất cầu, tiểu địa xứ xứ hữu chi, tế nhận mạch sở chỉ, thủy chi sở giao... Song đại địa thì không thể tìm được, tiểu địa thì chỗ nào cũng có, tế nhận chỗ mạch ngưng, chỗ nước giao. Câu 19: Mạch huyệt hợp kỳ ngũ hành Sơn thủy hợp kỳ âm dương Mạch huyệt hợp với ngũ hành, sơn thủy hợp với âm dương Câu 20: Âm long, dương thủy, dương long âm thủy Tọa chung khí sinh tú chiên triển nậu. Phàm sơn địa kết huyệt, lưỡng biên áp huyệt khai dịch thủy – Âm long dương thủy, Dương long âm thủy, tọa chung khí sinh chiên thần như giải đệm. Câu 21: Hữu lai tả sa giả khí, tả lai hữu sa giả khí Mạch bên hữu lại, ở bên tả có sa che khí - Mạch bên tả lại, bên hữu có sa che khí. Câu 22: Huyệt tọa vô phong xuy, vô ngưỡng ngọa, tiền thủy tụ, hậu sơn hồi, nhất sa vệ huyệt, nhất thủy nghịch triều, túc dĩ hảo, phú quý dã, hà tầng tầng huyệt mạch dư? Huyệt tọa không bị gió thổi, không như viên ngói nằm ngửa, phía trước thủy tụ, phía sau sơn hồi, một sa vệ huyệt, một thủy nghịch triều, đủ để giữ giàu sang vậy, đâu cần phải tầng tầng huyệt mạch dư. Câu 23: Cố cứu bần giả, cầu Cấu thủy lai, tế tự túc giả cầu sinh thủy lai Chỉ nên muốn cứu bần, tìm Cấn thủy lại; muốn cầu tự, cầu sinh thủy lại. Câu 24: Văn bất trúng, cầu Tốn, Tân bút Vô bất đạt, cầu Chấn, Canh kỳ kiếm. Văn không đỗ tìm bút ở Tốn Tân Võ không đạt tìm cờ, kiếm ở Chấn, Canh Câu 25: Vệ thần ư Tỵ Bính, vũ tướng anh hùng Bút sáp nhĩ ư Cấn, Đinh văn thần khôi việt. Kiếm vệ thần ở Tỵ, Bính thì võ tướng anh hùng Bút cài tai ở Cấn, Đinh thì văn thần khôi việt. Câu 26: Bút sấm vân thiên hán ngoại, trạng nguyên tự kỳ Án tề diện mục thiên tân nội, thần công khả đoạt Bút chọc mây ngoài thiên hán thì trạng nguyên tự hẹn Án ngang diện mục trong thiên tân thì thần công khả đoạt. Câu 27: Tả lai nhi hữu hóa yểm tâm, thử địa cận thiên kim Hữu lai nhi tả hóa chính án, tích tiền thiên vạn quán. Từ tạ lại mà hữu hóa che tâm, đất có đáng ngàn vàng Từ hữu lại mà tả hóa chính án, chứa tiền vàng vạn quan. Cho nên mới nói: “duỗi tay sờ thấy án, tiền tài ngàn vạn quan” Câu 28: Đại để khí chất ngưng vi địa, như Kim dĩ ứng thủy, thùy lưu ư bình địa mỗ khích đê Như thủy chánh dòng lưu vi nhi tụ, diệc như địa khí ngộ thủy chi nhi tụ, cố nộn sinh nhi thủy tụ vi huyệt Đại để khí chất ngưng vị địa, như Kim dĩ ứng thủy, thùy lưu ư bình địa mỗ khích đê. Như thủy chánh dòng lưu vi nhi tụ, diệc như địa khí ngộ thủy chi nhi tụ, cố nộn sinh nhi thủy tụ vi huyệt. Đại để khí chất đọng lại làm đất như Kim ngăn nước cho chảy xuống đất bằng, chỗ nào hở, hơi thấp một chút là nước sẽ chảy sô vào mà tụ lại – Cũng như địa khí gặp nước ngưng mà tụ vậy. Câu 29: Sơn cốc tác oa, tà, thủy như giả vi mang Sơn cốc thời chỗ oa tà, thủy như là chỗ hơi gợn sóng. Ảnh triều giả niêm thân sa huyệt, nội thùy viên vựng, tọa bất khuynh, trác bất lộ phong, bất lâm đầu, bất cát cước. Ảnh triều là chỗ rủ vựng tròn thân trong sa huyệt, tọa huyệt không có nghiêng nghé, không bị gió, không lấm đầu (nước thấm ở đầu) không cát cước (cắt cụt ở chân). Câu 30: Bình dương tác tựu đột lĩnh, hoặc phương bình nhất thốn vi cao, khai khẩu minh dịch huyệt nội, trọng thất bất bạc, yếu sử an bình ư nội thử, hợp địa lý chi ứng, cái niêm mộc táng ư địa, do khô chủng ư thổ, thổ nhuận, mộc sinh. Bình dương thời tới chỗ đột lĩnh hoặc chỗ vuông phẳng, hơi cao lên một tấc, khai khẩu minh dịch trong huyệt, vững chắc không mỏng manh, cần khiến cho bình an ở bên trong, đấy là hợp với sự ứng nghiệm của địa lý vậy. Bởi chưng hài cốt hài cốt táng ở đất như là cây khô trồng ở đất thấm nhuần cây mọc lên. Câu 31: Địa chưng cốt tiếp mộc căn ư thổ, kỳ đới thâm, trọng, tự nhiên, chi diệp mậu thịnh, phụ mẫu chi hình hài, tử tôn chi hình cốt. Đất kết thì hài cốt tiếp phúc, gốc cây ở đất, rễ nó bén sâu, tự nhiên cành lá xanh tốt. Hình hài của cha mẹ ảnh hưởng đến hình cốt con cháu. Câu 32: Phụ mẫu cốt tiếp ư địa, kỳ khí tụ âm tự nhiên, tử tôn hưng thịnh, cố sơn thủy chi ứng như hạ, nhược thị đoạt thần công, cải thiên mệnh, năng linh bần cải phú tiện cải quý phi tha thuật khả ti dã. Hài cốt của cha mẹ táng ở chỗ đất có khí âm kết, tự nhiên con cháu thịnh vượng. Bởi vậy nên sự ứng nghiệm về sơn thủy làm thế nào mà đoạt được thần công, đổi được thiên mệnh, có thể khiến cho nghèo trở nên giàu, hèn đổi nên sang, không phải thuật khác có thể so sánh được. Câu 33: Tướng địa diệc tự tướng nhân, nhất ngữ cai vạn ngữ, nhất ngung phản tam ngung, túc dĩ minh sư hỹ. Xem đất cũng như xem người, một lời nói có thể khái quát được muôn lời, một góc có thể phản chứng được ba góc, thế mới đủ làm minh sư vậy. TẢ ĐƠN ĐỀ CÁCH Đệ thập bát (18) HỮU THẬP BÁT CÁCH Chú vân: Sơn lai uyển chuyển, cục thế tả đơn, tứ vi hỏa diệu, nội ngoại kim loan, chư tinh chiếu nội, sơn thủy hồi hoàn, đương tri thử cách, phát phúc vĩnh miên, nhược năng đắc địa, văn trúng Khôi nguyên. CÁCH THỨ 18 Lời chú: Long đi uyển chuyển, cục đất này gọi là tả đơn đề. Bốn phía đều có diệu tinh hình hỏa. Trong ngoài đều có kim tinh uốn cong, mọi tinh phong đều chiếu vào trong huyệt. Sơn, thủy bồi hoàn. Nếu biết được cách này mà táng thì phát phúc đời đời văn trúng Khôi nguyên. CHƯƠNG XIX LÂM ĐIỀN THÙY ẢNH A. HƯỚNG DẪN PHẦN LÂM ĐIỀN THÙY ẢNH Chương 17 cũng nói về tổng hợp như từ chương 12 đến đây nhưng nhấn mạnh một chút về cách xem các bóng mờ trên đất. B. LÂM ĐIỀN THÙY ẢNH Câu 1: Phàm mạch lâm điền thùy ảnh như thủy chi ba. Phàm mạch lâm điền thùy ảnh như gợn sóng trên mặt nước. Câu 2: Thượng điền thùy ảnh như ba chi thùy đầu Chỗ ruộng rủ bóng như là chỗ làn sóng chũi đầu Câu 3: Ba đầu khiến thổ long khí tụ huyệt, kiến phong Kim long đắc kết huyệt thượng, kiến thủy khí mộc tinh thụ huyệt gia dung kết chi địa. Đầu sóng đi vượt khí thổ long mà tới huyệt trước. Thấy Kim long được kết ở trên huyệt. Thấy thủy khí mộc tinh tiếp nhận ở trên huyệt. Đấy đều là dung kết. Câu 4: Nhược kiến hỏa nhập Kim hương vi ngụy khí, bất tuyệt tha phóng thử. Nếu thấy hỏa vào Kim hương là ngụy khí, không tốt các chỗ khác đều phỏng theo đây mà luận. Câu 5: Thế hữu vạn đoan, vạn hình, bất quá tứ thế nhi dĩ: Oa, Kiềm, Nhũ, Đột thị dã. Thế có vạn đoan vạn hình nhưng chẳng qua cũng chỉ có 4 thế thôi, tức là Oa, Kiềm, Nhũ và Đột vậy. Câu 6: Sở quý giả, tả hữu loan bão, tiền thủy tụ, hậu sơn cao, án ấn phân minh, thành quách quan tỏa, cao bất phong xuy, đê bất thoát mạch, quan mạch tương tiếp, thừa kỳ vượng tướng. Tỵ kỳ cô hư, xả kỳ không vong, tức dĩ cái địa lý chi nghĩa dã. Đất đáng quý là tả hữu vòng ôm lại, thủy đằng trước tụ, sơn đằng sau cao, án và ấn phân minh, thành quách kín đáo, cao mà không bị gió thổi, thấp mà không thoát mạch, quan tài và mạch tiếp giáp với nhau, đón lấy vượng tướng, tránh cô, hư, bỏ không vong. Đủ để bao quát về ý nghĩa địa lý vậy. HỮU ĐƠN ĐỀ CÁCH Đệ thập cửu (19) HỮU ĐỆ THẬP CỬU CÁCH Chú vân: Sơn lai uyển chuyển, cục thế Hữu đơn, tứ vi tiêm diệu nội ngoại kim loan, chúng tinh chiếu huyệt, hữu bạn hồi hoàn, hựu như thượng cách, phát phúc vĩnh miên, nhược năng đắc địa, vũ khổn binh quyền. Hựu văn: Sơn lai sinh cục, hữu bạn hồi hoàn, tả kiên tác chứng, cổ viết đơn đề, thử vị hữu Tiên cung huyệt cách dã. CÁCH THỨ 19 Lời chú: Sơn lại uyển chuyển, cục thế được gọi là Hữu Đơn, bốn phía đều là diệu tinh hình hỏa, trong ngoài Kim tinh đóng hình vòng cong, chúng tinh đều chiếu vào huyệt, bên hữu vòng ôm. Được như thượng cách sẽ phát phúc đời đời: Để được đất này sẽ phát võ khiến binh quyền. Lại nói: Sơn lại sinh cục, bên hữu ôm vòng, vai tả làm chứng nên gọi là Đơn Đề Cách hay Hữu Tiên Cung Huyệt Cách. HỮU ĐƠN ĐỀ CÁCH Đệ thập cửu (19) CHƯƠNG XX TƯƠNG SINH TƯƠNG SÁT A. HƯỚNG DẪN PHẦN TƯƠNG SINH TƯƠNG SÁT Vài nét đặc biệt về sinh sát của đất kết B. TƯƠNG SINH TƯƠNG SÁT Câu 1: Phàm Canh, Dậu, Tân khởi tổ, chuyển Bính, Ngọ, Đinh nhập huyệt, tuyệt mệnh, hỏa Kim hỏa bại. Cát huyệt tú, đới cô hư, huyệt vô khí giả, tiền phát hậu sát giã Phàm Canh, Dậu, Tân khởi tổ chuyển ra Bính, Ngọ, Đinh mà vào huyệt thì tuyệt mệnh. Hỏa với Kim thì hỏa sẽ làm bại mất. Cát huyệt tốt mà đới cô, hư, thì huyệt không có khí, trước phát nhưng sau bị sát vậy. Câu 2: Canh chuyển Hợi, Mão, hướng Canh, thử địa quan chí tam công Canh chuyển Hợi, Mão, hướng Canh - Đất này quan đến tam công. Câu 3: Hợi long chuyển Cấn, nhập huyệt, phú quý vĩnh bất tuyệt. Hợi long chuyển sang Cấn rồi vào huyệt, thì giàu sang lâu bền mãi không tuyệt. Câu 4: Cấn chuyển Bính nhập huyệt, văn vũ đa hào kiệt phú quý xuất văn chương Cấn chuyển sang Bính đi vào huyệt, thời phát văn võ, nhiều bậc hào kiệt, giàu sang và phát xuất cả văn chương. Câu 5: Bính, Ngọ chuyển Cấn nhập huyệt phú quý hữu thanh danh. Bính, Ngọ chuyển qua Cấn vào huyệt, giàu sang có tiếng tăm. Câu 6: Hợi chuyển Dậu, Canh, Tân nhập huyệt, văn vũ phát bất tuyệt Từ Hợi chuyển qua Dậu, Canh, Tân mà vào huyệt, phát văn, phát võ bất tuyệt. Câu 7: Khôn, Thân chuyển Tý, Quý nhập huyệt, hướng Khôn, Thân, thử địa sĩ bạt quần Từ Khôn, Thân chuyển sang Tý, Quý vào huyệt hướng về Khôn, Thân đất này nhân sĩ siêu quần. Câu 8: Càn sơn Càn hướng thủy lưu Càn, thử địa xuất quan liêu Càn sơn, Càn hướng, nước chảy ra ở Càn, đất này phát xuất quan liêu Câu 9: Ngọ sơn, Ngọ hướng, Ngọ thủy lai, phú quý tốc như lôi Ngọ sơn, Ngọ hướng, Ngọ thủy chảy lại, giàu sang mau như sấm. Câu 10: Cấn chuyển Canh, nhập huyệt hướng Cấn, văn võ tinh hành, tài bất tận. Từ Cấn chuyển sang Canh vào huyệt hướng về Cấn phát cả văn lẫn võ, tiền của không dùng hết. Câu 11: Thủy diễu hậu hướng tiền, phát phúc vĩnh miên miên Nước quanh phía sau, hướng về phía trước, phát phúc dài liên miên. Câu 12: Thủy nhập hoài triền huyền vũ, phú quý phát, giai tụ sơn thủy huyệt. Tiền nghinh vi cao trật cao thiên, sơn vô triền hậu, vi quan bị nhân đấu (bị cạnh tranh) Nước vào lòng, quanh về huyền vũ, đều phát cả phú, quý. Tụ sơn thủy đón ở trước huyệt, làm quan được thăng cao trật. Không có sơn quanh ở đằng sau, làm quan bị người ta đả kích. Câu 13: Thanh long uyển chuyển bút sinh liên. Thử thị thần đồng trạc thiếu niên Long đi uyển chuyển bút kề bên cạnh. Phát thần đồng tuổi thiếu niên Câu 14: Hổ lập tôn cư trác Kim, khởi thử địa, thượng thư, tha vô tỉ Hổ đứng lom khom. Kim vút, chỉ đất phát thượng thu ai dám ví. Câu 15: Hậu đầu thử vĩ vi quỷ, thất bộ thành thi, nhân tranh thị Phía hậu đầu có đuôi chuột làm quỷ, bảy bước thành thơ, người lác mắt. Câu 16: Tiền như lư tiên, quan nhất cử đăng khoa Phía trước mặt có lư tiên, quan, một bước đăng khoa. Câu 17: Thế sở nan, tiểu thủy phát thâm tương ngộ, thế hãn hữu chi phú quý, chỉ nhật khả kỳ, nhân nạn cập hỹ Đời rất khó, nước nhỏ cùng gặp phát ở sâu, ở đời hiếm có giàu sang, có thể hẹn ngày, người ta khó kịp vậy. PHÚ THƯƠNG TỌA THỊ LIỆT TỨ CÁCH Đệ nhị thập (20) HỮU NHỊ THẬP CÁCH Tổ khởi nhi lai trú hữu cung Hựu hoành đoạn tiết chí biên đông Nhập yêu tác huyệt oa vi quý Vạn khoảnh điền trang, gia phú ông CÁCH THỨ 20 Khởi Tố mạch lai chú hữu cung, Quay ngang một tiết tới bên đông, Mạch vào lưng huyệt khai oa quý, Vạn mẫu điền viên đích phú ông. PHỤ LỤC 1 Giải thích câu thứ 62 của chương 12 nói về “Long Thượng Bát Sát”. Câu 62 chương 12 sách nói về Long Thượng Bát Sát quá đơn giản nên phải giải thích thêm: Có 8 sát của long và thủy mà nhà địa lý phải biết để tránh tai họa cho thân chủ. Nếu gặp Bát sát này mà không biết tránh sẽ tạo nên hung họa và bại tuyệt cho con cháu gia đình để đất. Câu 62 nói về Long Thượng Bát Sát cần phải giải thích cho rõ thêm và mạch lạc hơn là nguyên văn sách có của nhà cụ Tả Ao để quý vị nghiên cứu đỡ mất thời giờ tìm hiểu. Tài liệu này chúng tôi lấy ở một bộ sách địa lý đặc biệt của dòng họ Dương Quán Tùng. Họ Dương là dòng họ chính tông địa lý nổi danh nhất Trung Hoa và nổi danh lâu đời nhất. Không phải cụ Tả Ao không biết Long Thượng Bát Sát, nhưng đây là tài liệu cụ học ở bên tàu mang về, con cháu cứ theo như thế ghi lại, mà sách Tàu cổ xưa thường trình bày kém mạch lạc. Do đó nên chúng ta là con cháu của cụ Tả Ao phải bổ túc. Long Thượng Bát Sát là 8 loại long sát ở trên long 1. Thứ nhất là: Khảm Long - Nếu là Khảm Long thì hướng Thìn rất xấu. 2. Thứ hai là: Khôn Thỏ. - Nếu là Khôn long thì hướng Mão rất xấu. 3. Thứ ba là: Chấn Sơn Hầu - Nếu là Chấn long thì hướng Thân rất xấu. 4. Thứ tư là: Tốn Kê. - Nếu là Tốn long thì hướng Dậu rất xấu. 5. Thứ năm là: Kiền Mã - Nếu là Càn Long thì hướng Ngọ rất xấu. 6. Thứ sáu là: Đoài Sà Đầu - Nếu là Đoài long thì hướng Tỵ rất xấu 7. Thứ bảy là: Cấn Hổ - Nếu là Cấn Long thì hướng Dần rất xấu. 8. Thứ tám là: Ly Trư - Nếu là Ly long thì hướng Hợi rất xấu. Đễ dễ nhớ người ta đọc thuộc lòng như sau: 1. Khảm Long Khôn Thỏ, Chấn Sơn Hầu 2. Tốn Kê, Kiền Mã, Đoài Xà Đầu 3. Cấn Hổ, Ly Chư vi sát diệu 4. Mộ trạch phùng chi nhất tề hưu Ý nghĩa của 4 câu thơ như sau: Câu thứ nhất: Khảm Long, Khôn Thỏ, Chấn Sơn Hầu. a. Có nghĩa là quẻ Khảm (gồm 3 chữ Nhâm Tý Quý) cấm kỵ Long (tức là cấm kỵ Thìn). Do đó cấm tọa Thìn cấm hướng Thìn, cấm thủy từ Thìn lại và cấm có sơn ứng tự Thìn. b. Tiếp theo là quẻ Khôn (gồm ba chữ Mùi, Khôn, Thân) cấm kỵ Mão (thỏ), do đó cấm tọa Mão, cấm hướng Mão, cấm thủy từ Mão lại và cấm sơn ứng ở Mão. NGOẠI CẦM NỘI THÚ ĐẠI TIỂU NOA TINH CÁCH Thập thất cách (17) HỮU THẬP THẤT CÁCH Tổ sơn đại khởi nhập Long kiên Thủy nhiễu loan hồi hậu đáo tiền Tả hữu loan hoàn lai hướng phục Tế vi nhất tiết nhập yêu thiên. CÁCH THỨ 17 Tổ sơn cao khởi, chuyển vai Long, Tu hậu lai tiên, thủy uốn cong Long, Hổ, sa loan, triều, củng, phục. Tinh vi nhất mạch nhập yêu cong. c. Tiếp theo là quẻ Chấn (gồm 3 chữ Giáp Mão, Ất, mạch từ quẻ chấn đến thì kỵ Hầu (hầu là Thân). Do đó cấm tọa Thân, cấm hướng Thân, cấm thủy từ Thân lại và cấm sơn ứng ở Thân. 2. Câu thứ hai: Tốn Kê, Kiền Mã Đoài Xà Đầu a. Có nghĩa là quẻ Tốn (gồm 3 chữ Thìn Tốn Tỵ), long mạch từ quẻ Tốn đến thì kỵ Kê (kê là dậu). Do đó cấm tọa Dậu, hướng Dậu, cấm thủy từ Dậu lại và cấm có sơn ứng tại Dậu. b. Tiếp theo là Kiền Mã là quẻ Kiền (gồm 3 chữ Tuất Kiền Hợi), nếu long mạch từ Kiến đến thì kỵ Mã (Ngọ). Do đó cấm tọa Ngọ, hướng Ngọ, cấm thủy từ Ngọ lại, và cấm sơn ứng ở Ngọ. c. Tiếp theo là quẻ Đoài (gồm 3 chữ Canh, Dậu, Tân). Nếu long mạch tự Đoài đến thì kỵ Xà (xà tức là Tỵ). Do đó cấm tọa Tỵ hướng Tỵ, thủy tự Tỵ lai và cấm sơn ứng ở Tỵ. 3. Câu thứ ba: Cấn Hổ, Ly Trư vi sát diệu Có nghĩa là: a. Quẻ Cấn (gồm 3 chữ Sửu Cấn Dần). Nếu long mạch từ Cấn lại (hay từ Sửu Cấn Dần lại) thì kỵ Hổ (Dần) do đó cấm tọa Dần, hướng Dần, cấm thủy từ Dần lại và cấm sơn ứng ở Dần. b. Quẻ Ly (gồm 3 chữ Bính Ngọ Đinh). Nếu long mạch từ quẻ Ly hay hướng Ly lại thì kỵ Trư (trư tức là Hợi). Do đó cấm tọa Hợi, hướng Hợi, cấm thủy từ Hợi lại và cấm sơn ứng tại Hợi. Tám cách trên là sát diệu ta gọi là Bát Sát. 4. Câu thứ tư: Mộ trạch phùng chi nhất tề hưu Có nghĩa là âm phần và dương trạch nếu gặp phải tám loại sát như trên thì mọi sự đều hư hỏng, tai hại nguy hiểm cho cả tính mệnh con người, phải nên cẩn thận đề phòng, tránh những điều cấm kỵ như trên. Nếu những điều cấm kỵ trên mà còn có mũi nhọn (nha đao) đâm vào tim huyệt thì chắc chắn tai họa không thể tránh được. Cho nên khi điểm huyệt phải công phu làm sao tránh né được bát sát. Cụ Tả Ao có khuyên ta thu cái tốt, tránh cái xấu như sau: Mình sinh ám tử vô di Coi đi coi lại quản chi nhọc nhằn Quả nhiên huyệt chính long chân Tiêu sa nạp thủy chớ lầm một ly Táng thôi phúc lý tuy chi Trâm anh bất tuyệt thu thi gia truyền THẠCH THẠCH CAO PHI TIÊU MÔN GIÁ QUÝ Nhị thập nhất cách (21) HỮU NHỊ THẬP NHẤT CÁCH Chú vân: Sơn lai sổ lý, chi cán phân hành, đại hình đại thế, nội minh ngoại minh, long lai hổ bão, vạn thủy truùg thanh, tiêu môn giá quý, địa chấn khoa danh, đa sinh cự phú, thế xuất anh hùng, thử giai quy cách dã, dĩ thượng nhị thập nhất đồ, giai vi quý cách dã, đích vi chân huyệt. Hoặc tác âm phần, hoặc tác dương trạch, giai đoạn phú qu, chi cách dã, thử vị minh sinh lai chi, pháp dã. CÁCH THỨ 21 Lời chú: Sơn mạch chạy từ nhiều dặm lại, chi can phân chia mà đi, hình lớn thế lớn; trong rõ ngoài rõ. Long vòng Hổ bão, vạn ngọn nước lắng trong, là cách. TIÊU MÔN GIÁ QUÝ, đất phát khoa danh chấn động thiên hạ, thường sinh cự phú, đời đời phát xuất anh hùng, thật là quý cách vậy. Trong cách này: đúng là chân huyệt, nếu táng mộ hoặc làm nhà đều được đại phú, đại quý. THẠCH THẠCH CAO PHI TIÊU MÔN GIÁ QUÝ Nhị thập nhất cách (21) PHỤ LỤC 2 Giải thích câu 63 của chương 12 về Bát Đại Hoàng Tuyền. Câu 63 chương 12 nói về Bát Đại Hoàng Tuyền quá cô đọng nay xin giải thích thêm. Có 8 loại hoàng tuyền hướng và thủy (nước lại nước đi) sát mà làm địa lý cần phải biết để tránh hung họa cho giả chu. Phép đó thu vào 4 câu thơ như sau: Khứ lai thủy lộ bát đại hoàng tuyền. 1. Đinh, Canh, Khôn thường thị hoàng tuyền. 2. Ất, Bính tu phòng Tốn thủy tiên. 3. Giáp, Quý hướng lai hưu Kiến, Cấn. 4. Tân, Nhâm thủy lộ phạ dương Kiền. Giải nghĩa: Nước lại, nước đi tám lại hoàng tuyền sát (tục gọi là Sát nhân Đại Hoàng Tuyền). Câu thứ nhất: Đinh, Canh, Khôn thượng thị Hoàng Tuyền. Có nghĩa là: ở Mộc cuộc long bị hoàng tuyền hướng và thủy sát, nếu ta: - Thu Canh (Thai) thủy - Thu Đinh (Mộ) thủy lên minh đường. - Hoặc lập Khôn (Tuyệt) thủy lên minh đường - Hoặc lập Đinh (Mộ) hướng Canh (Thai) hươớg. Là bị Hoàng Tuyền hướng hoặc thủy sát. (Tài liệu photo mờ) - Hoặc lập Tốn (tuyệt) hướng, thu Tốn (tuyệt) thủy lên minh đường. - Hoặc lập Ất (mộ) hướng, Bính (thai) hướng là bị hướng hoặc thủy sát. Câu thứ ba: Giáp, Quý hướng trung hưu Kiến, Cấn. Có nghĩa là ở Kim cuộc long bị hoàng tuyền hướng và thủy sát nếu ta: - Thu Giáp (thai) thủy, Quý (mộ) thủy lên minh đường. - Hoặc lập Cấn (tuyệt) hướng, thu Cấn (tuyệt) thủy lên minh đường. - Hoặc lập Giáp (thai) hướng, Quý (mộ) hướng là bị hướng hoặc thủy sát. Câu thứ tư: Tân, Nhâm thủy lộ phạ dương Kiền. Có nghĩa là ở hỏa cuộc long bị hoàng tuyền hướng và thủy sát nếu ta: - Thu tân (Mộ), Nhâm (thai) hướng lên minh đường. - Lập Càn (tuyệt) hướng, thu Càn (tuyệt) thủy lên minh đường. - Lập Tân (mộ) hướng Nhâm (thai) hướng lên minh đường là bị hướng hoặc thủy sát. Thu thủy như trên là bị hoàng tuyền sát. Hoàng tuyền thủy nên phóng cho chảy đi, không nên cho nhập cuộc lên minh đường. Lại lập những hướng trên vừa kể là hoàng truyền thủy và hướng sát. Tức là thu Hướng và Thủy giết người, phải nên hết sức kiêng kỵ. Làm địa lý không nắm vững Long Thượng Bát sát và Bát Đại Hoàng Tuyền thì tạo hóa cho người để đất. Vậy phải hết sức kiêng kỵ. Bởi quan trọng nên Cao Trung xin trình bày kỹ lưỡng phụ lục này lên quý vị độc giả. PHỤ LỤC 3 THỦY PHÁP Hướng dẫn: Thủy pháp trong khoa Địa lý là phần quan trọng nhất. Nó là phần bí truyền của khoa Địa lý. Có nhiều vị học Địa lý 30, 40 năm mà vẫn không nắm được Thủy pháp. Làm địa lý mà không biết thủy pháp thì không thể biết được đâu là chân huyệt, đâu là giả huyệt do đó 10 ngôi có thể lầm đến 9 ngôi. Nội cuộc của một cuộc đất đầy đủ rồi mà Thủy pháp trúng thì 10 ngôi trúng cả 10. Phần Thủy pháp này nếu muốn nắm vững thì phải biết phân biệt tổng quát như sau: 1. Tất cả có 4 cuộc long là: Kim cuộc, Mộc cuộc, Thủy cuộc và Hỏa cuộc long. 2. Mỗi cuộc long có 6 huyệt là: - Chính sinh hướng - Chính vượng hướng - Tự sinh hướng - Mộ hướng - Dương hướng 3. Mỗi cuộc long đều có nước từ đâu đến Minh đường và từ minh đường chảy đi là thủy khẩu. 4. Nước có thể chảy xuôi, hay chảy ngược chiều kim đồng hồ, chảy xuôi là thuận, chảy ngược chiều kim đồng hồ gọi là chảy nghịch. 5. Các chính sinh của các cuộc long đều giống nhau duy chỉ có hướng và thủy khẩu khác nhau. Các chính vượng, tự sinh, tự vượng và mộ, dưỡng cũng vậy. CUỘC ĐẤT HỎA CUỘC LONG – CHÍNH SINH HƯỚNG (Dần, Ngọ, Tuất tam hợp Thành hỏa cuộc long) Thủy Tiêu Tân Tuất – Chính Mộ Khố Lưu ý: Nếu dùng cuộc đất này thì Tay Hổ dài và Tay Long ngắn. HỎA CUỘC LONG – CHÍNH SINH HƯỚNG Huyệt thứ 1 và của 6 huyệt thuộc Hỏa cuộc Long. Vượng khứ nghinh sinh, chính sinh hướng. Cục thế: Tả toàn long thụ hữu toàn thủy. Lập tọa Khôn hướng Cấn kiêm Dần ba phân. Trước phải thu bính Ngọ đế vượng thủy, tự sau vai bên hữu vào minh đường, thu Tốn Tỵ lâm quan thủy, thứ nữa thu Ất, Thìn quan đới thủy vào minh đường, rối đến Giáp Mão quý nhân thủy, rồi thu Cấn Dần (cung này là hướng thượng bản vị) tràng sinh thủy đem lại minh đường, vòng sang bên tả tiêu ra chữ tân là mộ khố. Đây là phép táng chính sinh hướng, nếu được hướng này, thì nhân đinh rất vượng, phú quý song toàn, bền lâu mãi mãi. CUỘC ĐẤT HỎA CUỘC LONG – CHÍNH VƯỢNG HƯỚNG (Dần, Ngọ, Tuất – Tam hợp thành hỏa cuộc long) Thủy Tiêu Tân Tuất – Chính Mộ Khố Lưu ý: Nếu dùng cuộc đất này thì Tay long phải dài và Tay Hổ phải ngắn. CHÍNH VƯỢNG HƯỚNG Hỏa Cuộc Long Chính Vượng Hướng này là huyệt thứ II của 6 huyệt thuộc Hỏa Cuộc Long. Sinh lai hội vượng, chính vượng hướng. Cục thế: Hữu toàn long, thu tả toàn thủy. Lập tọa Nhâm hướng Bính kiêm ngọ ba phân, nghinh lộc. Lập tọa Tý hướng Ngọ kiêm bính ba phân, tá lộc. Trước phải thu nước bên tả, Cấn Dần, tràng sinh thủy, Giáp Mão quý nhân thủy, Ất Thìn quan đới thủy, Tốn Tỵ lâm quan thủy, vào minh đường rồi thu Bính Ngọ (cung này là hướng thượng bản vị) thủy vào minh đường rồi vát thủy tiêu ra Tân, khố chảy đi. Phép tàng chính vượng hướng nếu được hướng này lại được long chân huyệt đích, thì phát tài, người thịnh, của nhiều, phát đạt bền lâu. CUỘC ĐẤT HỎA CUỘC LONG - TỰ SINH HƯỚNG (Dần, Ngọ, Tuất, tam hợp thành hỏa cuộc long) Thủy Tiêu Tân Tuất Chính Mộ Khố Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì Tay Hổ hơi dài và Tay Long hơi ngắn. HỎA CUỘC LONG - TỰ SINH HƯỚNG Huyệt thứ III thuộc 6 huyệt của Hỏa cuộc Long. Đây là phép biến cục, tá khố tiêu thủy, tự sinh hướng. Cục thế: Tả toàn long, thu hữu toàn thủy. Lập tọa Tý, hướng Hợi, kiêm Kiền ba phân. Lập tọa Tốn, hướng Kiền, kiêm Hợi ba phân. Nước từ bên hữu đổ sang bên tả. Lấy cung Kiền, cung Hợi ngay vị trí chữ tuyệt khởi tràng sinh, nghĩa là tự mình hướng thượng khởi tràng sinh cho mình, đây gọi là tuyệt sứ phùng sinh (ngay cung tuyệt gặp tràng sinh0. Trước phải thu Giáp Mão là đế vượng thủy, Cấn Dần là lâm quan thủy, Quý Sửu là quan đới thủy, Nhâm Tý là quý nhân thủy, rồi thu Kiền Hợi là tràng sinh thủy (cung này là hướng thượng bản vị) vào minh đường. Phép này gọi là khố tiêu nạp (mượn khố tiêu thủy khẩu). Táng được hướng này phát rất mau và phát nhân đinh nhiều phú quý rất lớn. CUỘC ĐẤT HỎA CUỘC LONG - TỰ VƯỢNG HƯỚNG (Dần, Ngọ, Tuất Tam hợp Hỏa cuộc long) Thủy Tiêu Tân Tuất Chính Mộ Khố Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì Tay Long hơi dài và Tay Hổ hơi ngắn. HỎA CUỘC LONG - TỰ VƯỢNG HƯỚNG Huyệt thứ IV của 6 huyệt thuộc Hỏa cuộc long. Đây là phép biến cục, tá khố tiêu thủy, tự vượng hướng. Cục thế: hữu toàn long, thu tả toàn thủy. Lập tọa Giáp, hướng Canh kiêm Dậu ba phân, nghinh lộc. Lập tọa Mão, hướng Dậu, kiêm canh ba phân, tá lộc. Nước từ bên tả đổ sang bên hữu, lấy cung Canh Dậu ngay vào vị trí chữ tử hóa thành chữ vượng, đây là tự mình khởi lấy vượng hướng thượng. Nếu vượng ở cung Dậu, thì tràng sinh phải ở cung Tỵ (Tốn Tỵ) đây thu Tốn Tỵ là tràng sinh thủy, Bính Ngọ là quý nhân thủy. Đinh Mùi là quan đới thủy, Khôn Thân là lâm quan thủy, rồi đến Canh Dậu là đế vượng vượng thủy (cung này là hướng thượng bản vị) vào minh đường, rồi tiêu ra chữ Tân là mộ khố, cứ tính như phép tá cục tiêu thủy này, thì vượng tá cục Tân Tuất là suy, vậy nên gọi là tá suy phương xuất thủy (mượn phương suy cho nước tiêu ra). Táng được hướng này phát phú rất mau, mà đinh tài quý gồm cả, tức là lối biến cục hóa tử vi vượng (hóa chữ tử làm chữ vượng). Như trên bốn huyệt trong hỏa cục long, phải tiêu thủy ra chính mộ khố mới được lập hướng. Bốn hướng là: chính sinh, chính vượng, tự sinh, tự vượng. Công thức này là tam hợp Dần, Ngọ, Tuất, tức như Cấn, Bính, Tân lấy âm dương phối hợp thành cục. Đây tuy nhiên nói là biến cục, tá khố tiêu thủy nhưng phải tiêu nạp (thu thủy và tiêu thủy) đúng với công thức của nó mới được lập hướng, ngoại trừ không được những hướng khác với bốn công thức trên, nếu thấy thủy đã tiêu ra tân khố. CUỘC ĐẤT CUỘC LONG – CHÍNH MỘ HƯỚNG (Dần, Ngọ, Tuất, Tam hợp, Hỏa Cuộc Long) Thủy Tiêu Tân Tuất Chính Mộ Khố Lưu ý: nếu dùng cuộc đất này thì Tay Long hơi dài và Tay Hổ hơi ngắn. HỎA CUỘC LONG – CHÍNH MỘ HƯỚNG Huyệt thứ V của 6 huyệt thuộc Hỏa cuộc long. Cách: Lộc tồn lưu tận bội kim ngư. Chính mộ hướng. Cục thế: Tả toàn long thu hữu toàn thủy. Lập tọa Ất hướng Tân, kiêm Tuất ba phân nghinh lộc. Lập tọa Thìn hướng Tuất kiêm Tân ba phân tá lộc. Nước bên tả đổ sang bên hữu, trước phải thu nước cung Tốn cung Tỵ là lâm quan thủy, thứ đến thu nước cung Bính, cung Ngọ là đế vượng thủy, vào minh đường rồi thu nước bên tả là cung Cấn cung Dần tràng sinh thủy vào giao hợp trước minh đường, rồi vát ra ngôi chữ tuyệt là Kiền Hợi, cho thủy khẩu tiêu đi. Bởi ngôi chữ tuyệt là vị trí sao lộc tồn, nước ở cung này chỉ nên tiêu đi không nên triều lại, nên dùng làm thủy khẩu rất tốt. Lập hướng này: thu cả nước ở ngôi đế vượng đến mình đường, phép táng này đúng với câu: Tân nhập kiền cung bát vạn trạng (hướng tân thủy tiêu kiền có hàng trăm vạn điền trang). Táng được hướng này thì con trai con gái phát đồng đều, giàu sang thịnh đạt. CUỘC ĐẤT HỎA CUỘC LONG CHÍNH DƯỠNG HƯỚNG (Dần, Ngọ, Tuất tam hợp thành hỏa cuộc long) Thủy Tiêu Tân Tuất Chính Mộ Khố Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì Tay Hổ hơi dài và Tay Long hơi ngắn. HỎA CUỘC LONG – CHÍNH DƯỠNG HƯỚNG Huyệt thứ VI của 6 huyệt thuộc Hỏa cuộc long. Cách: Quý nhân lộc mã thượng ngư nhai, chính dưỡng hướng. Cục thế: Tả toàn long thu hữu toàn thủy. Lập tọa Đinh, hướng Quý, kiêm tý ba phân, nghinh lộc. Lập tọa Mùi, hướng Sửu, kiêm quý ba phân, tá lộc. Nước bên hữu đổ sang bên tả, thu nước ở cung Cấn, cung Dần là tràng sinh dưỡng (bản vị hướng thượng) vào minh đường, quy về ngôi chữ tuyệt là kiền hợi, tức là thủy khu tiêu đi, bởi vị trí nơi chữ tuyệt nên tiêu nước đi không nên thu nước lại. Lập hướng này con cháu được thịnh đạt, sang giàu khoa giáp văn chương. Nói về hỏa cục long, nếu thấy nước về chữ tuyệt, chỉ được lập hai phép: một là chính mộ hướng, hai là chính dưỡng hướng. Kỳ dư: Cấm không được lập hướng nào khác hơn hai hướng trên. Nói tóm lại, hỏa cục long có 6 hướng tốt là: chính sinh chính vượng, tự sinh tự vượng, chính mộ và chính dưỡng, những hướng sinh, hướng vượng thì thủy phải tiêu ra chữ tuyệt mới là hợp cách. CUỘC ĐẤT THỦY CUỘC LONG – CHÍNH SINH HƯỚNG (Thân, Tý, Thìn Tam hợp thành Thủy Cuộc Long) Thủy tiêu Ất Thìn Chính Mộ Khố Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì Tay Hổ dài và Tay Long ngắn. THỦY CUỘC LONG – CHÍNH SINH HƯỚNG Huyệt thứ 1 của 6 huyệt thuộc Thủy cuộc long. Vượng khí nghinh sinh, chính sinh hướng Cục Thế: Tả toàn long, thu hữu toàn thủy Lập tọa Dần hướng Thân, kiêm Khôn ba phân. Lập tọa Cấn hướng Khôn kiên Thân ba phân. Trước phải thu Nhâm Tý đế vượng thủy từ sau vài bên hữu vào minh đường, thứ khu Kiền Hợi, lâm quan thủy, thứ nữa Tân Tuất, quan đới thủy vào minh đường rồi đến Canh Dậu quý nhân thủy, rồi thu Khôn Thân tràng sinh thủy (cung này là hướng thượng bản vị) đem lại minh đường, vòng sang bên tả tiêu ra chữ Ất là mộ khố. Đây là phép táng chính sinh hướng, nếu được hướng này thì nhân đnh rất vượng, phú quý song toàn, bền lâu mãi mãi. CUỘC ĐẤT THỦY CUỘC LONG – CHÍNH VƯỢNG HƯỚNG (Thân, Tý, Thìn Tam hợp, Thành Thủy Cuộc Long) Thủy Tiêu Ất Thìn Chính Mộ Khố Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì Tay Long dài và Tay Hổ ngắn. THỦY CUỘC LONG – CHÍNH VƯỢNG HƯỚNG Huyệt thứ II của 6 huyệt thuộc Thủy cuộc long Sinh lai hội vượng Chính vượng hướng Cục thể: hũu toàn long thu tả toàn thủy. Lập tọa bính, hướng nhâm, kiêm hợi ba phân nghinh lộc Lập tọa Ngọ, hướng Tý, kiêm Nhâm ba phân tả lộc. Trước phải thu nước bên tả, Khôn Thân tràng sinh thủy, Canh Dậu quý nhân thủy, Tân Tuất quan đới thủy Kiền Hợi lâm quan thủy vào minh đường, rồi thu Nhâm Tý (cung này là hướng thượng bản vị) thủy vào minh đường rồi vát thủy tiêu ra Ất khố chảy đi. Phép táng này chính vượng hướng lại được long chấn huyệt đích, thì phát tài, người thịnh của nhiều, phát đạt bền lâu. CUỘC ĐẤT THỦY CUỘC LONG - TỰ SINH HƯỚNG (Thân, Tý, Thìn Tam Hợp Thành Thủy Cuộc Long) Thủy Tiêu Ất, Thìn, Chính Mộ Khố Lưu ý: nếu dùng cuộc đất này thì Tay Hổ hơi dài và Tay Long hơi ngắn THỦY CUỘC LONG - TỰ SINH HƯỚNG Huyệt thứ III của 6 huyệt thuộc Thủy cuộc long. Đây là phép biến cục, tá khố tiêu thủy, tự sinh hướng. Cục thế: Tả toàn long, thu hữu toàn thủy. Lập tọa Kiền hướng Tốn kiêm Tỵ ba phân. Lập tọa Hợi hướng Tỵ kiêm Tốn ba phân. Nước từ bên hữu đổ sang bên tả, lấy cung Tốn, cung Tỵ ngay vị trí chữ tuyệt khởi tràng sinh, nghĩa là tự mình hướng thượng khởi tràng sinh cho mình, đây gọi là tuyệt sứ phùng sinh (ngay cung tuyệt gặp tràng sinh). Trước phải thu Canh, Dậu là đế vượng thủy, Khôn Thân là lâm quan thủy, Đinh Mùi là quan đới thủy, Bính Ngọ là quý nhân thủy, rồi thu Tốn Tỵ tràng sinh thủy 9cung này là hướng thượng bản vị) vào minh đường, phép này gọi là tá khố tiêu nạp (mượn khố tiêu thủy khẩu) táng được hướng này phát rất mau và phát nhân đinh nhiều, phú quý rất lớn. CUỘC ĐẤT THỦY CUỘC LONG - TỰ VƯỢNG HƯỚNG (Thân, Tý, Thìn, Tam hợp thành thủy cuộc long) Thủy Tiêu Ất Thìn – Chính Mộ Khố Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì Tay Long hơi dài và Tay Hổ hơi ngắn. THỦY CUỘC LONG - TỰ VƯỢNG HƯỚNG Huyệt thứ IV, của 6 huyệt thuộc Thủy cuộc long. Đây là biến cục tá khố tiêu thủy, tự vượng hướng. Cục thế: Hữu toàn long khu tả toàn thủy. Lập tọa Canh, hướng Giáp kiêm Dần ba phân nghinh lộc. Lập tọa Dậu, hướng Mão kiêm Giáp ba phân tá lộc. Nước từ bên tả đổ sang bên hữu, lấy cung Giáp Mão ngay vào vị trí chữ tử hóa thành chữ vượng. Đây là tự mình lấy vượng hướng thượng. Nếu vượng ở cung Giáp Mão thì tràng sinh phải ở Kiền Hợi. Đây thu Kiền Hợi là tràng sinh thủy, Nhâm Tý là quý nhân thủy, Quý Sửu là quan đới thủy, Cấn Dần là lâm quan thủy, rồi đến Giáp Mão là đế vượng thủy (cung này là hướng thượng bản vị) vào minh đường rồi tiêu ra chữ Ất là mộ khố. Cứ tính như phép tá cục tiêu thủy này, thì vượng tá cục Ất Thìn phải là suy, vậy nên gọi là tá suy phương xuất thủy (mượn phương suy cho nước tiêu ra). Táng được hưởng này, phát phú rất mau, mà đinh tài quý gồm cả, tức là lối biến cục hóa tử vi vượng (hóa chữ tử làm chữ vượng). Như trên bốn tuyệt trong thủy cục long, phải tiêu thủy ra chính mộ khố mới được lập hướng, bốn hướng là chính sinh, chính vượng, tự sinh, tự vượng. Công thức này là tam hợp Thân, Tý, Thìn tức như Khôn Nhâm Ất lấy âm dương phối hợp thành cục, tá khố tiêu thủy. Như phải tiêu nạp đúng với công thức ở trên mới được lập hướng, ngoại trừ không được lập những hướng khác trên, nếu thấy thủy đã tiêu ra ất khố. CUỘC ĐẤT THỦY CUỘC LONG – CHÍNH MỘ HƯỚNG (Thân, Tý, Thìn Tam hợp thành Thủy cuộc long) Thủy Tiêu Ất Thìn Chính Mộ Khố Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì Tay Long hơi dài và Tay Hổ hơi ngắn. THỦY CUỘC LONG – CHÍNH MỘ HƯỚNG Huyệt thứ V của 6 huyệt thuộc Thủy cuộc long. Cách: Lộc tồn lưu tận bội kim ngư, chính mộ hướng. Cục thế: Tả toàn long thu hữu toàn thủy, nếu hữu toàn long thu tả toàn thủy. Lập tọa tận hướng ất kiêm thìn ba phân tá lộc. Nước bên tả đổ sang bên hữu, trước phải thu nước bên hữu là cung Kiền, cung Hợi lâm quan thủy, thứ đến thu nước cung Nhâm, cung Tý là đế vượng thủy, vào minh đường rồi thu nước bên tả là cung Khôn, cung Thân, thân là tràng sinh thủy, vào giao hợp trước minh đường, rồi vát ra chữ tuyệt là Tốn Tỵ, cho thủy khẩu tiêu đi. Bởi ngôi chữ tuyệt là vị trí sao lộc tồn, nước ở cung này chỉ nên tiêu đi không nên triều lại, nên dùng làm thủy khẩu rất tốt. Lập hướng này: thu cả nước ở ngôi tràng sinh và ngôi đế vượng đến minh đường, phép táng này đúng với câu: Ất hướng Tốn lưu thanh phú quý (hướng Ất thủy khẩu tiêu tốn rõ ràng giàu sang). Táng được hướng này thì con trai, con gái phát đồng đều, giàu sang, thịnh đạt. CUỘC ĐẤT THỦY CUỘC LONG – CHÍNH DƯỠNG HƯỚNG (Thân, Tý, Thìn Tam hợp thành Thủy cuộc long) Thủy Tiêu Ất Thìn Chính Mộ Khố Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì Tay Hổ hơi dài và Tay Long hơi ngắn. THỦY CUỘC LONG – CHÍNH DƯỠNG HƯỚNG Huyệt thứ VI của 6 huyệt thuộc Thủy cuộc long. Cách: Quý nhân lộc mã thượng ngu nhai chính dưỡng hướng. Cục thể: Tả toàn long thu hữu toàn thủy. Lập tọa quý hướng đinh kiêm ngọ ba phân nghinh lộc. Lập tọa Sửu hướng Mùi kiêm Đinh ba phân tá lộc. Nước bên hữu đổ sang bên tả, thu nước ở cung Khôn cung Thân là tràng sinh thủy, thứ đến thu nước ở cung Đinh cung Mùi là vị trí của ngôi dưỡng (bản vị hướng thượng) vào minh đường, quy về chữ tuyệt là Tốn Tỵ tức là thủy khẩu tiêu đi, bởi vị trí ngôi chữ tuyệt: là nên tiêu nước đi không nên thu nước lại. Lập hướng này con cháu được thịnh đạt sang giàu khoa giáp, văn chương. Nói về thủy cục long, nếu thấy nước tiêu về chữ tuyệt chỉ được hai phép: Một là chính mộ hướng, hai là chính dưỡng hướng, kỳ dư cấm không được lập hướng nào khác hơn hai hướng trên. Nói tóm lại thủy cục long có 6 hướng tốt là chính sinh, chính vượng, tự sinh, tự vượng, tự sinh, tự vượng, chính mộ và chính dưỡng. Những hướng sinh, hướng vượng thì thủy phải tiêu ra mộ khố, những hướng mộ hướng dưỡng thì thủy phải tiêu ra ngôi chữ tuyệt mới là hợp cách. CUỘC ĐẤT KIM CUỘC LONG – CHÍNH SINH HƯỚNG (Tỵ, Dậu, Sửu – Tam hợp Thành Kim Cuộc Long) Thủy Tiên Quý Sửu Chính Mộ Khố Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì Tay Hổ dài và Tay Long ngắn. KIM CUỘC LONG – CHÍNH SINH HƯỚNG Huyệt thứ 1 của 6 huyệt thuộc Kim cuộc long. Vượng khứ nghinh sinh, chính sinh hướng. Cục thể: Tả toànlong thu hữu toàn thủy. Lập tọa Kiền hương Tốn, kiêm Tỵ ba phân. Lập tọa Hợi hướng Tỵ, kiêm Tốn ba phân. Trước phải thu Canh Dậu để vượng thủy, từ vai sau bên hữu vào minh đường, thứ thu Khôn Thân lâm quan thủy, thứ nữa thu Đinh Mùi quan đới thủy, vào minh đường, rồi đến Bính Ngọ quý nhân thủy, Tốn Tỵ tràng sinh Tỵ thủy (cung này là hướng thượng bản vị) đem lại minh đường, vòng sang bên tả, tiêu ra chữ quý là mộ khố. Đây là phép tàng chính sinh hướng, nếu được hướng này, thì nhân đinh rất vượng, phú quý song toàn, bền lâu mãi mãi. CUỘC ĐẤT KIM CUỘC LONG – CHÍNH VƯỢNG HƯỚNG (Tỵ, Dậu, Sửu Tam hợp Thành Kim Cuộc Long) Thủy Tiêu Quý Sửu Chính Mộ Khố Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì Tay Long dài và Tay Hổ ngắn. KIM CUỘC LONG – CHÍNH VƯỢNG HƯỚNG Huyệt thứ II của 6 huyệt thuộc Kim cuộc long. Sinh lai hội vượng, chính vượng hướng. Cục thế: Hữu toàn long, thu tả toàn thủy Lập tọa Giáp, hướng Canh, kiêm Dậu ba phân, nghinh lộc. Lập tọa Mão, hướng Dậu, kiêm Canh ba phân, tá lộc. Trước phải thu nước bên tả, Tốn Tỵ tràng sinh thủy, Bính Ngọ quý nhân thủy, Đinh Mùi quan đới thủy, Khôn Thân lâm quan thủy, vào minh đường, rồi thu Canh Dậu đế vượng thủy (cung này là hướng thượng bản vị) vào minh đường, rồi vát thủy tiêu ra quý khố chảy đi. Phép táng này, chính vượng hướng, lại được long chân huyệt đích, thì phát tài, người thịnh của nhiều, phát đạt bền lâu. CUỘC ĐẤT KIM CUỘC LONG - TỰ SINH HƯỚNG (Tỵ, Dậu, Sửu tam hợp Thành Kim Cuộc long) Thủy tiêu Quý Sửu – Chính Mộ Khố Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì Tay Hổ hơi dài và Tay Long hơi ngắn. KIM CUỘC LONG - TỰ SINH HƯỚNG Huyệt thứ III của 6 huyệt thuộc Kim cuộc long Đây là phép biến cục, tá khố tiêu thủy, tự sinh hướng. Cục thế: tả toàn long thu hữu toàn thủy. Lập tọa Khôn, hướng Cấn, kiêm Dần ba phân. Lập tọa Thân, hướng Dần, kiêm Cấn ba phân. Nước từ bên hữu đổ sang bên tả, lấy cung Kiền, cung Hợi, ngay vị trí chữ tuyệt khởi tràng sinh, nghĩa là: Tự mình hướng thượng khởi tràng sinh cho mình, đây gọi là: Tuyệt sứ phùng sinh (ngay cung tuyệt gặp tràng sinh). Trước phải thu Bính Ngọ là đế vượng thủy, Tốn Tỵ là lâm quan thủy, Ất Thìn là quan đới thủy, Giáp Mão là quý nhân thủy, rồi thu Cấn Dần là tràng sinh thủy 9cung này là hướng thượng bản vị) vào minh đường. Táng được hướng này, phát rất mau, phát nhân đinh nhiều phú quý rất to lớn. CUỘC ĐẤT KIM CUỘC LONG TỰ VƯỢNG HƯỚNG (Tỵ, Dậu, Sửu Tam Hợp Thành Kim Cuộc Long) Thủy Tiêu Quý Sửu Chính Mộ Khố Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì Tay Long hơi dài và Tay Hổ hơi ngắn. KIM CUỘC LONG - TỰ VƯỢNG HƯỚNG Huyệt thứ IV của 6 huyệt thuộc Kim cuộc long. Đây là phép biến cục, tá khố tiêu thủy, tự vượng hướng. Cục thế: Hữu toàn long, thu tả toàn thủy. Lập tọa Bính, hướng Nhâm, kiêm Tý ba phân, nghinh lộc. Lập tọa Ngọ, hướng Tý, kiêm Nhâm ba phân, tá lộc. Nước từ bên tả đổ sang bên hữu, lấy cung Nhâm Tý ngay vào vị trí chữ tử, hóa thành chữ vượng. Đây là tự mình khởi lấy vượng hướng thượng Nếu vượng ở cung Nhâm Tý thì tràng sinh phải ở cung Khôn Thân, thu Khôn Thân là tràng sinh thủy. Canh Dậu là quý nhân thủy, Tân Tuất là quan đới thủy. Kiền, Hợi là lâm quan thủy, rồi đến Nhâm Tý là đế vượng thủy (cung này là hướng thượng bản vị) vào minh đường, rồi tiêu chữ quý là mộ khố, cứ tính như phép tả cục tiêu thủy này, thì vượng tá cục (Nhâm Tý) Quý Sửu phải là suy, vậy nên gọi là Tá suy phương xuất thủy, (mượn phương suy cho nước tiêu ra). Táng được hưởng này, phát phúc rất mau và đinh, tài quý gồm cả, tức là lối biến cục, hóa tử vi vượng (hóa chữ tử làm chữ vượng). Như trên bốn cục trong kim cục long, phải tiêu thủy ra chính mộ khố mới được lập hướng, bốn hướng là: Chính sinh, chính vượng, chính sinh tự vượng, công thức này là Tam hợp Tỵ Dậu Sửu, tức như Tốn, Canh, Quý lây âm dương hợp thanh cục. Đây tuy nhiên nói là biến cục, tá khố tiêu thủy, nhưng phải tiêu nạp (thu thủy và tiêu thủy) đúng với công thức của nó mới được lập hướng, ngoài trừ, không được lập những hướng khác với bốn công thức trên, nếu thấy thủy tiêu ra quý khố. CUỘC ĐẤT KIM CUỘC LONG – CHÍNH MỘ HƯỚNG (Tỵ, Dậu, Sửu, Tam Hợp Thành Kim Cuộc Long) Thủy Tiêu Quý Sửu Chính Mộ Khố Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì Tay Long hơi dài và Tay Hổ hơi ngắn. KIM CUỘC LONG – CHÍNH MỘ HƯỚNG Huyệt thứ V của 6 huyệt thuộc Kim cuộc long Cách: lộc tổ lưu tận bội kim ngư, chính mộ hướng Cục thế: Tả toàn long, thu hữu toàn thủy. Lập tọa Đinh, hướng Quý, kiêm tý ban phân, nghinh lộc Nước bên tả đổ sang bên hữu, trước phải thu nước bên hữu là cung Khôn Thân, tức làm quan thủy, thứ đến thu nước cung Canh, cung Dậu là đế vượng thủy, vào minh đường, rồi thu nước bên tả là cung Tốn, cung Tỵ tức tràng sinh thủy, vào giao bội rước minh đường, rồi vát ra ngôi chữ tuyệt là Cấn Dần, chỗ thủy khẩu tiêu đi. Bởi ngôi chữ tuyệt là vị trí sa lộc tồn, nước ở cung chỉ nên tiêu đi, không nên triều lại nên dùng làm thủy khẩu rất tốt. Lập hướng này, thu cả nước ở ngôi tràng sinh và ngôi đế vượng đến minh đường, phép táng này đúng với câu Quý quy Cấn thượng hiển văn chương (Hướng quý thủy khẩu tiêu chữ Cấn phát văn khoa hiển đạt). Táng được hướng này, thì con trai, con gái phát đồng đều, giàu sang thịnh đạt. CUỘC ĐẤT KIM CUỘC LONG – CHÍNH DƯỠNG HƯỚNG (Tỵ, Dậu, Sửu – Tam Hợp Thành Kim Cuộc Long) Thủy Tiêu Quý Sửu Chính Mộ Khố Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì Tay Hổ hơi dài và Tay Long hơi ngắn. KIM CUỘC LONG – CHÍNH DƯỠNG HƯỚNG Huyệt thứ VI của 6 huyệt thuộc Kim cuộc Long Cách: Quý nhân lộc mã thượng ngư nhau, chính dưỡng hướng. Cục thế: tả toàn long, thu hữu toàn thủy. Lập tọa tân hướng Ất, kiêm mão ba phân, nghinh lộc. Lập tọa Tuất, hướng Thìn, kiêm Ất ba phân, tá lộc. Nước bên hữu đổ sang bên tả, thu nước ở cung Canh cung Dậu, là đế vượng thủy, rồi thu nước ở cung Thân, cung Khôn là lâm quan thủy, cung Đinh, cung Mùi là quan đới thủy, cung Bính cung Ngọ là quý nhân thủy, cung Tốn cung Tỵ là tràng sinh thủy, cùng với nước ở cung Ất Thìn tức vị trí của ngôi dưỡng (bản vị hướng thượng) vào minh đường quy vào ngôi chữ tuyệt, tức là chữ Cấn, nó là thủy khẩu tiêu đi, bởi vì ngôi chữ tuyệt chỉ nên tiêu nước đi, không nên thu nước lại. Lập hướng này, con cháu được thịnh đạt, phát khoa giáp văn chương. Nói về kim cục long, nếu thấy nước tiêu về chữ tuyệt thì được lập hai phép. Một chính mộ hướng, một nữa là chính dưỡng hướng, kỳ dư cấm không được lập hướng nào khác hơn hai hướng trên. Nói tóm lại, kim cục long có sáu hướng tốt là: chính sinh, chính vượng, tự sinh, tự vượng, chính mộ, chính dưỡng. Những hướng mộ, hướng dưỡng thì thủy khẩu phải tiêu ra ngôi chữ tuyệt, những hướng sinh, hướng vượng, thì thủy khẩu phải tiêu ra mộ khố, mới là hợp cách. CUỘC ĐẤT MỘC CỤC LONG CHÍNH SINH HƯỚNG (Hợi, Mão, Mùi Tam Hợp Thành Mộc Cuộc Long) Thủy Tiêu Đinh Mùi Chính Mộ Khố Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì Tay Hổ dài và Tay Long ngắn MỘC CUỘC LONG – CHÍNH SINH HƯỚNG Huyệt thứ 1 của 6 huyệt thuộc Mộc cuộc long. Vượng khứ nghinh sinh, chính sinh hướng Cục thế: Tả toàn long, thu hữu toàn thủy. Lập tọa Tốn, hướng Kiền, kiêm Hợi ba phân. Lập tọa Tỵ, hướng Hợi, kiêm Kiền ba phân. Trước phải thu Giáp Mão để vượng thủy, từ sau vai bên hữu vào minh đường, thu Cấn Dần lâm quan thủy, thứ nữa thu Quý Sửu quan đới thủy vào minh đường rồi Nhâm Tý quý nhân thủy, Kiền Hợi tràng sinh thủy (cung này là hướng thượng bản vị) đem lại minh đường, vòng sang bên tả, tiêu ra chữ đinh là mộ khố. Đây là phép táng chính sinh hướng, nếu được hướng này thì nhân đinh rất vượng, phú quý song toàn, bền lâu mãi mãi. CUỘC ĐẤT MỘC CUỘC LONG – CHÍNH VƯỢNG HƯỚNG (Hợi, Mão, Mùi, Tam Hợp Thành Mộc Cuộc Long) Thủy Tiêu Đinh Mùi Chính Mộ Khố Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì Tay Long dài và Tay Hổ ngắn. MỘC CUỘC LONG – CHÍNH VƯỢNG HƯỚNG Huyệt thứ II của 6 huyệt thuộc Mộc Cuộc Long Sinh lai hội vượng, chính vượng hướng Cục thế: Hữu toàn long, thu tả toàn thủy Lập tọa Canh hướng Giáp, kiêm Dần ba phân nghinh lộc. Lập tọa Dần hướng Mão, kiêm Giáp ba phân, tá lộc. Trước phải thu bên tả Kiền Hợi tràng sinh thủy, Nhâm Tý quý nhân thủy, Quý Sửu quan đới thủy, Cấn Dần lâm quan thủy, vào minh đường, rồi thu Giáp Mão để vượng (cung này là hướng thượng bản vị) vào minh đường, rồi vát thủy tiêu ra đinh khố chảy đi. Phép táng này chính vượng hướng, lại được long chân huyệt đích, thì phát tài, người thịnh của nhiều, phát đạt bền lâu. CUỘC ĐẤT MỘC CUỘC LONG TỰ SINH HƯỚNG (Hợi, Mão, Mùi Tam Hợp Mộc Cuộc Long) Thủy Tiên Đinh Mùi Chính Mộ Khố Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì Tay Hổ hơi dài và Tay Long hơi ngắn. MỘC CUỘC LONG - TỰ SINH HƯỚNG Huyệt thứ III của 6 huyệt thuộc Mộc Cuộc Long. Đây là phép biến cục, tả khố tiêu thủy. Tự sinh hướng. Cục thế: Tả toàn long, thu hữu toàn thủy. Lập tọa Cấn, hướng Khôn, kiêm Thân ba phân. Lập tọa Dần, hướng Thân, kiêm Khôn ba phân. Nước từ bên hữu đổ sang bên tả, lấy cung Khôn, Thân ngay vị trí chữ tuyệt, khởi tràng sinh, nghĩa là tự mình hướng thượng khởi tràng sinh cho mình, đây gọi là tuyệt sứ phùng sinh (ngay cung tuyệt gặp tràng sinh). Trước phải thu Nhâm Tý là đế vượng thủy, Kiền Hợi là lâm quan thủy, Tân Tuất là quan đới thủy, Canh Dậu là quý nhân thủy, rồi thu Khôn Thân là tràng sinh thủy (cung này là hướng thượng bản vị) vào minh đường. Táng được hướng này phát rất mau, phát nhân đinh nhiều, phú quý rất lớn. CUỘC ĐẤT MỘC CUỘC LONG - TỰ VƯỢNG HƯỚNG (Hợi, Mão, Mùi: Tam hợp, Mộc Cuộc Long) Thủy Tiêu Đinh Mùi, Chính Mộ Khố Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì Tay Long hơi dài và Tay Hổ hơi ngắn. MỘC CUỘC LONG - TỰ VƯỚNG HƯỚNG Hỏa cuộc long tự vượng hướng này là huyệt thứ IV của 6 huyệt của Mộc Cuộc Long. Đây là phép biến cục, tá khố tiêu thủy, tự vượng hướng. Cục thế: hữu toàn long, thu tả toàn thủy. Lập tọa Nhâm hướng Bính, kiêm Ngọ ba phân nghinh lộc. Lập tọa Tý hướng Ngọ, kiêm Bính ba phân tá lộc. Nước từ bên tả đổ sang bên hữu, lấy cung Bính cung Ngọ ngay vào vị trí chữ tử, hóa thành chữ vượng, đây là tự mình khởi lấy vượng hướng thượng. Nếu vượng ở cung Bính Ngọ, thì tràng sinh ở cung Cấn Dần, đây thu Cấn Dần là tràng sinh thủy, Ất Thìn là quan đới thủy Tốn Tỵ là lâm quan thủy, rồi đến Bính Ngọ là Đế vượng thủy (cung này là hướng thượng bản vị) vào minh đường, rồi tiêu ra chữ Đinh là một khố, cứ tính như phép tá cục tiêu thủy này, thì vượng tá cục (Bính Ngọ) Đinh Mùi phải là suy, vậy nên gọi là: Tá suy phương xuất thủy (mượn phương suy cho phép tiêu ra). Táng được hướng này, phát phú rất mau, mà Đinh tài quý gồm cả, tức là lối biến cục, hóa tử vi vượng (hóa chữ tử làm chữ vượng). Như trên bốn cục trong mộc cung long phải tiêu thủy ra chính mộ khố mới được lập hướng, bốn nước là: chính sinh, chính vượng, tự sinh, tự vượng, công thức này là tam hợp Hợi Mão Mùi, tức như kiền Giáp Đinh, lấy âm dương phối hợp thành cục. Đây tuy nhiên nói là biến cục, tá khố tiêu thủy, nhưng phải tiêu nạp (thu thủy và tiêu thủy) đúng với công thức của nó mới được lập hướng, ngoại trừ không được lập những hướng khác với bốn công thức trên, nếu thấy thủy đã tiêu ra Đinh khố CUỘC ĐẤT MỘC CUỘC LONG – CHÍNH MỘ HƯỚNG (Hợi, Mão, Mùi: Tam hợp, Mộc Cục Long) Thủy Tiêu, Đinh Mùi, Chính Mộ Khố Lưu ý: Nếu đúng cuộc đất này thì Tay Long hơi dài và Tay Hổ hơi ngắn. MỘC CUỘC LONG – CHÍNH MỘ HƯỚNG Huyệt thứ V của 6 huyệt thuộc Mộc cuộc long. Cách: Lộc tồn lưu tận bội kim ngư, Chính mộ hướng Cục thế: Hữu toàn long, thu tả toàn thủy. Tả toàn long, thu hữu toàn thủy. Lập tọa Quý hướng Đinh, kiêm Mùi ba phân nghinh lộc. Lập tọa Sửu hướng Mùi, kiêm Đinh ba phân tá lộc. Nước từ bên tả đổ sang bên hữu, trước phải thu nước bên hữu là cung Cấn cung Dần lâm quan thủy, thứ đến thu nước cung Giáp, cung Mão là đế vượng thủy vào minh đường, rồi thu nước bên tả là cung Kiền cung Hợi là tràng sinh thủy, vào giao hợp trước minh đường rồi vát ra ngôi chữ tuyệt là Khôn Thân, cho thủy khẩu tiêu đi. Bởi ngôi chữ tuyệt là vị trí sao lộc tồn, nước ở cung này chỉ nên tiêu đi, không nên triều lại, nên dùng làm thủy khẩu rất tốt. Lập hướng này, thu cả nước ở ngôi tràng sinh và ngôi đế vượng đến minh đường, phép táng này đúng với câu: Đinh Khôn chung thị vạn tự trang (hướng Đinh thủy khẩu tiêu chữ Khôn, phát cự phú, của chất đầy muôn kho, ngàn vựa). Táng được hướng này, thì con trai, con gái phát đồng đều, giàu sang thịnh đạt. CUỘC ĐẤT MỘC CUỘC LONG CHÍN DƯỠNG HƯỚNG (Hợi, Mão, Mùi, Tam Hợp Thành Mộc Cuộc Long) Thủy Tiêu Đinh Mùi Chính Mộ Khố Lưu ý: Nếu dùng cuộc đất này thì Tay Hổ hơi dài và Tay Long hơi ngắn. MỘC CUỘC LONG – CHÍNH DƯỠNG HƯỚNG Huyệt thứ VI của 6 huyệt thuộc Mộc cuộc long. Cách: Quý nhân lộc mã thượng như nhau. Chính dưỡng hướng. Cục thế: Tả toàn long, thu hữu toàn thủy. Lập tọa Ất, hướng Tốn, kiêm Dậu ba phân nghinh lộc. Lập tọa Thìn, hướng Tuất, kiêm Tốn ba phân tá lộc. Nước bên hữu đổ sang bên tả, thu nước ở cung Giáp cung Mão là đế vượng thủy rồi thu nước ở cung Cấn cung Dần là lâm quan thủy, cung Quý cung Sửu là quan đới thủy, cung Nhâm cung Tý là quý nhân thủy, cung Kiền cung Hợi là tràng sinh thủy, cùng với nước ở cung Tân cung Tuất là vị trí của ngôi dưỡng (bản vị hướng thượng) vào minh đường quy vào ngôi chữ tuyệt là chữ Khôn tức là thủy khẩu tiêu đi, bởi vì ngôi chữ tuyệt chỉ nên tiêu nước đi, không nên thu nước lại. Lập hướng này con cháu sẽ được thịnh đạt, phát khoa giáp văn chương. Nói về mộc cục long, nếu thấy nước tiêu về chữ tuyệt chỉ được lập hai phép: Một là chính mộ hướng, một là chính dưỡng hướng, kỳ dư: Cấn không được lập hướng nào khác hơn hai hướng trên. Nói tóm lại một cục long có 6 hướng tốt, là chính sinh, chính vượng, tự sinh, tự vượng, chính mộ, chính dưỡng. Những hướng mộ hướng dưỡng thì thủy phải tiêu ra ngôi chữ tuyệt. Những hướng sinh hướng vượng thì thủy phải tiêu ra mộ khố, mới là hợp cách. Đón đọc bộ trường thiên tiểu thuyết lịch sử nói về cuộc mưu đồ tái dựng nước của tổ tiên ta sau hơn nghìn năm Bắc thuộc: ANH HÙNG TIÊU SƠN Của Yên tử cư sĩ Trần Đại Sỹ Mỗi nhà phải có một bộ Anh hùng Tiên Sơn để biết: - Cuộc khởi binh của bà Triệu, làm người Ngô kinh hồn động phách. - Cuộc khởi binh của Bố cát đại vương. Ngài có đức gì, khiến dân chúng tôn làm cha (bố) mẹ (cái)? - Hành trang các vị Bồ Tát Bố Đại (Phật Di Lặc) Vô Ngại, Phụng Định, Duy Giám, La Quý An, Vạn Hạnh, Sùng Phạm, Huệ Sinh. - Đất Việt là nơi địa linh. Thế đất Tiêu Sơn kết phát, nhà Lý làm vua trên hai trăm năm. Hai trận Bạch Đằng của vua Ngô, vua Lê, cho đến nay còn dư oai - Lý Công Uẩn, từ một người chăn trâu cho chùa. Sau dựng lên triều Lý, lấy nhân đức trị dân. - Võ học, y học thế kỷ thứ mười, mười một của dân tộc Việt. NHÀ XUẤT BẢN XUÂN THU